HỒI THỨ MƯỜI BẢY

Thái-sư thượng-phụ một sớm lên tiên,
Trần-triều đại-vương nghìn thu hiển thánh.

Vua có ý quyến luyến Hưng-đạo vương thường thường sai người đến thăm nom, Hưng-đạo vương thỉnh thoảng cũng vào chầu vua.

Một bữa vào độ canh hai, đêm hôm ấy trên không quang đãng, sao sáng rực giời. Vua nhân lúc thanh nhàn, ra sân ngắm xem thiên-văn. Sực thấy một ngôi tướng-tinh cực to, tự đông-bắc bay vụt sang tây-nam, rồi sa xuống đất, ánh sáng lòe ra 10 trượng. Vua thất kinh, không biết là điềm hay dở làm sao.

Sáng hôm sau, vua ra ngự triều hỏi các quan rằng:

— Đêm hôm qua là 24 tháng sáu, có ngôi sao to sa xuống ở góc tây-nam, các quan có ai biết là điềm gì chăng?

Phạm-Ngộ bước ra tâu rằng:

— Ngôi tướng-tinh sa là điềm nhà nước mất một vì lương-đống. Đêm qua, chúng tôi cũng có trông thấy ngôi sao sa tự mé đông-bắc, chắc là ứng vào Hưng-đạo đại-vương, thiết tưởng ngài cũng không thọ được bao lâu nữa.

Vua thấy nói không vui lòng. Kíp sai quan đi thăm Hưng-đạo vương. Hôm sau sứ-giả về báo rằng: Hưng-đạo vương phải bệnh từ đêm hôm ấy.

Vua thất kinh, lập tức ngự giá thân sang Vạn-kiếp thăm bệnh ngài.

Khi ấy Hưng-đạo vương mệt nặng, các con và các gia-thần hầu hạ xung quanh, không dám dời ra lúc nào. Sực báo có ngự giá đến. Bốn vị vương-tử cùng ra nghinh tiếp. Hưng-đạo vương sai người đỡ mình dậy.

Vua vào nhà trong, thấy ngài mệt lắm, nói rằng:

— Trẫm ở trong cung, không ngờ thượng-phụ quí thể lại bệnh trọng thế này.

Hưng-đạo vương tâu rằng:

— Lão-thần năm nay đã ngoài 70 tuổi, thế đã là thọ, dù chết cũng không hối hận gì nữa.

— Thượng-phụ là lương đống nhà nước, mong sao hưởng thọ được lâu dài, cho trẫm trông cậy.

— Bệ-hạ chớ lo, lão-thần tuy không được ở lại báo đáp quốc ân, nhưng còn nhiều người hiền-tài giúp được bệ-hạ.

— Thượng-phụ một mai khuất núi, phỏng có quân bắc lại đến xâm nhiễu, thì làm thế nào?

— Nước ta tự thủa xưa Triệu-võ vương dựng nước, Hán-đế đem binh đến đánh. Võ-vương sai dân đốt sạch đồng áng, không để đồ lương thảo cho giặc chiếm được; rồi đem đại-quân sang châu Khâm, Liêm đánh trận Tràng-sa, dùng đoản binh mà đánh được, đó là một thời. Đến đời Đinh, Lê, nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam ta đang cường, vua tôi đồng lòng, bụng dân phấn trấn; mà bên Tàu đang lúc suy nhược, cho nên đắp thành Bình-lỗ,[1] mà phá được quân nhà Tống, đó lại là một thời. Đến đời nhà Lý, quân Tống sang xâm, Lý-đế sai Lý-thường-Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm, dồn đến Mai-lĩnh, quân hùng tướng dũng, đó là có thế đánh được. Kế đến bản triều, giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi cùng lòng, anh em hòa mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là lòng giời giúp ta mới được thế. Đại để: Kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta thì cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhau với tràng, phép dùng binh thường vẫn phải thế. Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió như lửa, thế ấy lại là dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tằm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới là khó trị; thì ta nên ủy dùng tướng giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ, phải tùy cơ mà ứng biến, cốt dùng được binh phải đồng lòng như cha con một nhà, thì mới có thể đánh được. Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì, khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là chước giữ nước hay hơn cả đấy.

Vua chịu nhời ấy là rất phải.

Hưng-đạo vương lại nói rằng:

— Lão-thần cõi thọ đã hết, xin bệ-hạ nghĩ việc nhà-nước làm trọng, lão-thần từ đây không được chầu bệ-hạ nữa đâu.

Vua xót xa, từ giở ra về cung.

Các vương hầu và văn võ các quan, ai nấy cùng đến hỏi thăm. Hưng-đạo vương nhất nhất cảm tạ lòng các quan, và dặn lại rằng:

— Ta nay hết lộc, không được cùng với các quan lo việc nước nữa, các quan nên đồng lòng thờ vua giúp nước, phải giữ trung, hiếu làm đầu mới được.

Các quan ai nấy vâng nhời từ ra.

Hưng-đạo vương gọi con trưởng là Hưng-võ vương Nghiễn vào dặn rằng:

— Sau khi ta mất, không được cho Quốc-Tảng vào khâm liệm, đợi khi nào đậy áo quan rồi, sẽ cho nó vào.

Vì tự khi xưa An-sinh vương có hiềm với Thái-tôn, có dặn ngài tranh lấy thiên-hạ. Đến lúc quân Nguyên vào cõi, quân quyền về cả tay ngài, ngài mới đem nhời An-sinh vương bảo với gia-tướng là Dã-Tượng, Yết-Kiêu. Hai người đáp rằng: « Làm như thế thì phú quí được một thời, nhưng để tiếng xấu nghìn năm. Nay đại-vương cũng đã phú quí rồi, sao nỡ làm thế. Chúng tôi xin chết già làm đầy tớ đại-vương, chớ không muốn mang tiếng bất trung, bất hiếu, mà cầu làm quan to. » Ngài nghe nói xong, động lòng rớm nước mắt. Ngài lại hỏi Hưng-võ vương Quốc-Nghiễn rằng: « Cổ-nhân giầu có cả thiên-hạ, để truyền cho con cháu, bụng con nghĩ thế nào? » Quốc-Nghiễn thưa rằng: « Phận làm tôi không nên thoán nghịch, giá vua khác họ cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ. » Ngài lấy nhời ấy làm phải. Lại hỏi đến con thứ là Hưng-nhượng vương Quốc-Tảng. Quốc-Tảng thưa rằng: « Ngày xưa vua Thái-tổ nhà Tống vốn là một ông lão làm ruộng, còn biết thừa thời tranh cướp, để lấy thiên-hạ, huống chi phụ-thân bây giờ binh quyền ở cả trong tay, việc gì mà chẳng lấy. » Ngài nổi giận rút ngay gươm ra kể tội Quốc-Tảng là bất trung, bất hiếu, toan đem chém ngay. Quốc-Tảng khóc lóc chịu tội, các tướng can ngăn ngài mới tha. Bởi thế ngài vẫn ghét, đến bây giờ dặn không cho vào khâm liệm.

Bệnh ngài dần dần mỗi ngày một nặng, qua sang tháng sau ngài mất. Bấy giờ là ngày 20 tháng tám năm Canh-tí, niên hiệu Hưng-long thứ tám (niên hiệu Đại-đức thứ tư vua Thành-tôn nhà Nguyên, lịch tây 1300), ngài thọ được 75 tuổi.

Có thơ tán rằng:

Trung hiếu lòng son tự tính thành,
Anh-hùng ra sức chống giời xanh.
Gươm thần một lưỡi kinh hồn giặc,
Ngựa đá nghìn thu vững cõi mình.
Đền Kiếp bia cao truyền sự nghiệp,
Sông Đằng sóng cuốn hiển uy danh.
Giời Nam hương hỏa còn ghi nhớ,
Oanh liệt kìa kìa dấu hiển linh!

Hưng-đạo vương mất rồi, các vương-tử sai người về kinh-đô báo phó. Vua bấy giờ đang ngự đền Tuyền-thất, nghe tin ngài mất, than khóc nói rằng:

— Thượng-phụ vì nhà-nước mặc áo giáp cầm đồ binh, quét sạch bụi rợ Hồ, đem lại thần kinh, phủ yên trăm họ, nay bỏ trẫm mà đi, trẫm bao giờ lại được người yêu vua lo nước như là thượng-phụ nữa?

Thượng-hoàng và hoàng-thái hậu cũng khóc, các quan ai nấy cảm thương, dân gian xa gần xụt xùi sầu thảm, tựa hồ như mất cha mẹ. Vua sai bãi chầu 10 ngày, bắt văn võ trăm quan cùng phải để chở. Vua lại ngự giá ngồi xe mộc, ngựa trắng, thân đến Vạn-kiếp coi việc trị tang. Sai các quan dùng hậu lễ rước ma táng ở trong vườn An-lạc.

Vua về triều giáng chiếu truy phong ngài là: Thái-sư thượng-phụ, Thượng-quốc-công, Bình-bắc đại-nguyên-súy, long-công thịnh-đức, vĩ-liệt hồng-huân, nhân-võ, Hưng-đạo đại-vương. Sai thợ dùng gỗ bạch-đàn, chế ra tượng ngài, để thờ trong đền Vạn-kiếp. Lại sai lập miếu thờ ở quê ngài là làng Tức-mạc, phủ Thiên-trường, bốn mùa sai quan tế bái.

Ngài thực là một người hết lòng với vua với nước, tuy rằng uy quyền lừng lẫy, mà vẫn giữ chức phận làm tôi, không dám điều gì kiêu ngạo. Đang khi quân Nguyên quấy nhiễu, ngài cầm binh quyền, Thánh-tôn, Nhân-tôn cho ngài được chuyên quyền phong tước; trừ ra chỉ tự tước hầu thì cho ngài phong trước rồi mới tâu sau. Thế mà ngài không dám tự tiện phong thưởng cho ai chút nào. Phàm các nhà giầu, ngài có quyên tiền gạo, để cấp cho quân ăn, thì ngài chỉ phong cho làm Giả-lang tướng mà thôi, đó là ngài giữ phận làm tôi cẩn thận như thế. Bởi thế ngài mất đi, tự vua quan cho chí bách-tính ai cũng thương tiếc.

Tự khi lập đền ở Vạn-kiếp, hai xã Vạn-an, Dược-sơn ngày đêm đèn hương phụng sự. Ngài thường hiển linh trừ tà trị bệnh cứu hộ nhân dân. Khi nào có giặc, triều-đình sai quan đi đánh, thường đến cầu đảo, hễ thấy thanh kiếm thờ trong đền tự nhiên rung động, thì khi ấy tất thắng trận.

Nhân dân nhiều nơi lập đền thờ phụng, lịch triều có sắc phong ngài là Thượng-đẳng tối linh thần.

Phụ-thân ngài được truy phong làm Khâm-minh đại-vương.

Mẫu-thân ngài truy phong làm Thiện-đạo quốc-mẫu.

Phu-nhân ngài là Thiên-thành thụy-dương, ngọc-nhất, trưởng-công-chúa cũng được truy tôn làm Nguyên-từ quốc-mẫu.

Các con ngài là Hưng-võ vương Quốc-Nghiễn, Hưng-hiến vương Quốc-Úy, Hưng-nhượng vương Quốc-Tảng, về sau cũng được phong làm đại-vương. Con thứ tư là Hưng-trí vương Nghê từ khi đánh Nguyên giở về đến làng Chung-mỹ huyện Thủy-đường tỉnh Hải-dương,[2] chiêu mộ lưu dân, cho tụ tập làm ăn. Về sau mất đi, dân ở đấy lập miếu phụng tự, lịch đại có sắc phong làm phúc-thần.

Các bộ-tướng của ngài: Phạm-ngũ-Lão về sau lại đánh Ai-lao, Chiêm-thành có công được phong làm Điện-tiền thượng-tướng-quân. Sau khi mất, làng Phù-ủng lập miếu thờ làm phúc-thần.

Yết-Kiêu về sau cũng được phong tặng làm Tĩnh-mục-hiển-minh-chiêu-ứng đại-vương, làm thành-hoàng làng Hạ-bì.[3]

Nguyễn-chế-Nghĩa về sau lấy con gái vua Anh-tôn là nàng Nguyệt-hoa công-chúa, lúc mất được phong làm An-nghĩa đại-vương. Làng Kiêu-kỵ[4] nhân thấy linh-ứng, lập miếu thờ làm thành-hoàng.

Còn các tướng cũng được phong tặng, tòng tự ở trong đền Vạn-kiếp.

Kể từ năm Đinh-tị Nguyên-phong tứ bảy (1257) ngài mới bắt đầu phụng mệnh đánh giặc, đến năm nay là năm giáp-dần (1914), trục tính được 657 năm, mà miếu mạo uy danh ngài lại nguy nga hơn trước. Ngài thực là một bậc đại-anh-hùng nước Nam.

Đó là:

Đông-a vận mở giời sinh thánh,
Nam-hải danh thơm sử tạc bia.

Hồi sau sẽ lục những bài văn tán.



  1. Thuộc Thái-nguyên.
  2. Thủy-đường bây giờ thuộc tỉnh Kiến-an.
  3. Thuộc huyện Gia-lộc, tỉnh Hải-dương.
  4. Thuộc Bắc-ninh.