Hưng Đạo vương/Hồi 18
HỒI THỨ MƯỜI TÁM
Phụ lục các bài văn tán
Bài văn tán Hưng-đạo đại-vương
Bậc thần thánh danh cao trong cõi,
Một chữ trung thọ với giang sơn.
Tài kiêm Gia-Cát, Phần-Dương,
Chẳng qua trong tấm cương trường suy ra.
Cõi Nam tự Đông-a về trước,
Biết bao người dẹp nước yên dân.
Song mà kiển kiển vương-thần,
Muôn người có một đức Trần Thái-sư.
Vốn dòng dõi kim-chi ngọc-diệp,
Đủ kinh-luân khang-tế tài cao.
Sơ sinh điềm ứng chiêm bao,
Thanh-y giáng thế giời trao anh-hùng.
Chí da ngựa, tinh thông thao-lược,
Khoác áo rồng bỉ chước Trần-kiều.
Gặp cơn quốc bộ hiểm nghèo,
Khăng khăng vẫn giữ một điều tận trung.
Kìa giặc Đát ruổi rong vó ngựa,
Trải ba phen đạp vỡ trùng quan.
Buồn khi chim gáy hoa tàn,
Phất phơ cờ thúy mấy ngàn rừng thông.
Có kẻ giở ra lòng Vệ-Luật,
Có người xoay ra mặt Bang-Xương.
Giời Nam còn có chủ trương,
Nhị tâm đã thấy những phường bạc đen.
Đang khi ấy cầm quyền thống ngự,
Một Thái-sư gìn giữ phong cương.
Ví mà bắt chước Kính-Đường,
Bắc vương đã chấp, Nam vương khó gì?
Ghét những truyện thừa nguy mãi quốc,
Gác ngoài tai những chước hàng Nguyên.
Đầu còn thì dạ vẫn bền,
Da này sát-Đát chữ in chưa lòa.
Mũi gậy rút, rõ ta vô nhị,
Tờ hịch treo, khuyên kẻ đồng cừu.
Tức gan với đứa thiên-kiêu,
Thì đem dạ sắt mà liều tay lang.
Khi chước đặt thượng-giang phóng phiệt,
Khi kế bày binh trượng đại-doanh.
Có khi dử giặc lui binh,
Giồng chông đáy nước để rình thuyền qua.
Chí địch khái, bòng tà kéo lại,
Người tiêm cừu, tay trái đều day.
Mấy phen rồng chọi tuyết bay,
Người đề cờ nghĩa, người bày mưu trung.
Người đan kị, nhảy xông cường trận,
Người chích thuyền, chèo sấn cuồng lan.
Ấy ai đánh vỡ thuyền lương?
Ấy ai Hàm-tử, Chương-dương đua tài?
Ngựa đá cũng bồ hôi chiến trận,
Nước triều cũng nổi giận bá đào.
Gió mây theo ngọn cờ đào,
Thần, nhân hiệp tán giặc nào chẳng tan?
Ngươi Hoan nọ xa ngàn dặm trút,
Chàng Đô kia liều một thân tàn.
Còn như Ô-Mã, Sầm-Đoàn,
Bá-Linh, Cơ-Ngọc vào đoàn tù dây.
Lặng gió ải cỏ cây lại tốt,
Đặt âu vàng non nước đều yên.
Ngẫm cơ liệu địch sao thiêng,
Ngày xưa hai chữ « tặc nhàn » không ngoa.
Quân ta mạnh chẳng qua nhẽ thẳng,
Việc nước xong bởi gắng lòng trinh.
Hiến phù dưới khuyết cáo thành,
Đền ân sơn hải chút tình quyên ai.
Trên thánh-đế giáng bài ngọc dụ,
Chiếu đình-thần làm sổ quân công.
Tùy công nhớn nhỏ gia phong,
Thái-sư tên ở đầu dòng gác Yên.
Phong vương tước gia thêm chữ Đại,
Đền sinh-từ ngự lại đề bia.
Thiên đình trích đã mãn kì,
Tạ từ sớ tấu đan-trì một phong.
Đưa xe hạc gió trong giăng đạm,
Ngày hai mươi tháng tám giờ lành.
Muôn năm Vạn-kiếp miếu đình,
Độ dân là phật, hiển linh là thần.
Còn nhật nguyệt trung thành còn giãi,
Còn phong đình nghĩa khái còn vang.
Tuồng chi là giống phạm Nhan,
Thác chưa biết xấu còn làm nhớp gươm.
Nào những lũ ma-vương, lệ-quỉ,
Nào những loài mộc-súy, thạch-tinh.
Liếc trông đã khiếp uy linh,
Lọ cây kiếm-thụ, lọ hình đao-san.
Cho biết đứng thần tiên xuất thế,
Khắp vùng giời chính khí hạo nhiên.
Ở đời giúp nước an biên,
Qui thần thì vẫn hiển nhiên như còn.
Tiếng khử bạo, gươm mòn vẫn sắc,
Uy trừ hung, chiếu rách còn thiêng.
Tinh trung ủng hộ Nam-thiên,
Ắt là quốc thái dân yên đời đời.
Bài văn tán bốn vị Vương-tử
Vẻ phượng tốt, võ mao cũng tốt,
Tính lân nhân, sừng gót cũng nhân.
Xưa nay con thánh cháu thần,
Khuôn giời lại đúc thánh thần như in.
Thủa Trần-đế gây nền bàn thạch,
Trong tôn thân nhiều bực anh hiền.
Thái-sư khổn ngoại cầm quyền,
Việt mao chống với giặc Nguyên mấy lần?
Việc nhà nước muôn phần gian đại,
Nghĩa chí thân đánh phải ra tay.
Hoàng-thiên chứng dạ thảo ngay,
Lại sinh thánh-tử để thay việc ngoài.
Tứ thánh-tử bậc tài văn võ,
Cũng ngang tay tam lược, lục thao.
Khi ngạc lãng, kình đào tăm nổi,
Lũ giặc giời quyết chém chẳng dong.
Con quan tướng, nối dòng quan tướng,
Chữ tướng-môn hữu tướng xưa nay.
Khuôn nhà luyện tập những ngày,
Cửu-cung, Bát-quái trong tay đã nhòng.
So vào bậc đồ long không kém,
Có như ai học kiếm không nên.
Trông vời bể ngạc chưa êm,
Đã ngày mài sắt, lại đêm gối đồng.
Nghĩ mình cũng là dòng đế-trụ,
Nặng đôi vai quân phụ ái ân.
Sao cho quét sạch Hồ trần,
Đền ơn sơn hải vài phần chút nao.
Sá chi lũ xôn xao ong kiến,
Để nhọc người dã chiến, duy trù.
Rấn mình trong đám chinh tru,
Thư-sinh mà trưởng thiên phu mới kỳ!
Khi vâng lịnh truy tùy thánh-giá,
Khi đón đường giết phá Nguyên binh.
Khi ngày phục nỏ rừng xanh,
Khi đêm bạt trại tiễu bình Thoát-Hoan.
Khi chém tướng xông ngang trên trận,
Khi gìm thuyền chèo sấn tràng giang.
Đã khi thu phục An-bang,
Lại khi đánh vỡ thuyền lương Vân-đồn.
Ấy là bậc hoàng-tôn, vương-tử,
Mà cũng liều xuất tử nhập sinh.
Cho nên mãnh-tướng hùng-binh,
Ai ai cũng nức lòng thành cần-vương.
Thơ ai đọc: « Giang sơn hoành sáo? »
Cờ ai đề chữ: « Báo quốc ân? »
Hai bên văn võ tướng-quân,
Cũng đều nhất đức nhất tâm khác gì?
Kìa những đứa Nguyên binh tham bạo,
Trông ngọn cờ phải tháo cho mau.
Lưỡi gươm liếc sạch lầu lầu,
Tản, Nùng y cựu một mầu xanh xanh.
Thượng-tướng vịnh: « Thái bình chí lực. »
Thượng-hoàng khen: « Nhờ sức gia nhân. »
Ân phụ tử, nghĩa quân thần,
Gặp khi bản đãng thuần-thần rõ ra.
Vi tử thế mới là cung chức,
Hưng sư này ấy thực đồng bào.
Nhà nghiêm đang lúc phiền lao,
Khinh cừu người vẫn ra vào thảnh thơi.
Công bình tặc ghi nơi Yên-các,
Sắc phong vương sau trước vinh hoa.
Mưa ơn về cả một nhà,
Linh thung một gốc, lệ hoa bốn cành.
Truyện Hoàng-việt sử xanh còn đó.
Sông Bạch-đằng nước đỏ bấy lâu.
Võ công tiếng để nghìn thâu,
Giời Nam đóng vững kim âu sơn hà.
Thanh bảo kiếm trừ tà phụ chính,
Cánh linh phù cứu bệnh phù nguy.
Những người khẩu nguyện việc chi,
Cầu danh, cầu tự khắc kỳ ứng ngay.
Đền Vạn-dược hương bay gió đức,
Cửa bể Đông sóng rức uy linh.
Muôn dân ai cũng ngưỡng chiêm,
Phần hương đính lễ một niềm qui y.
Bài văn tán hai vị Vương-nữ
Năm trăm năm vừa kỳ sinh thánh,
Sông Hoàng-hà nhấp nhánh gương trong.
Triều Trần đang thủa hưng long,
Vua tôi các nước, mây rồng duyên ưa.
Giời sinh đức Thái-sư giúp trị,
Giá nguyên-thần lại vị ý-thân.
Trong triều nẩy mực cầm cân,
Ngoài biên thiết việt mấy lần sửa sang.
Một sân dợp cành vàng lá ngọc,
Dòng kì lân, chỉ giốc liên sinh.
Một nhà trung đỉnh trâm anh,
Đông-a sáng vẻ, bắc-đình thêm xuân.
Tiên Bồng-đảo vui trần bay xuống.
Phật Quan-âm cũng giáng chân thân.
Mơ màng giấc quế đêm xuân,
Sao sa điềm ứng thánh thần thác sinh.
Hoa sau trước đôi cành chia nở,
Đóa hải-đường hớn hở chiều xuân.
Dấu đài-các, vẻ thanh-tân,
Song song ngọc đúc, vàng cân khác thường.
Tư giời lại đoan trang minh mẫn,
Việc khuê môn giảng sẵn gia đình.
Nữ tài bằng bậc khoa danh,
Quyển vàng sách ngọc tập tành trong cung.
Buổi vương-phụ bệ rồng vâng chiếu,
Lĩnh kiếm cờ tiến tiễn giặc Nguyên.
Trâm thoa đối với cung tên,
Giúp trong khổn nội chu tuyền đảm đang.
So Nương-tử nhà Đường thủa trước,
Hào hùng trong khuê các nhường ai?
Nền nhân cửa tướng khác vời,
Năm mây có chiếu trên giời truyền trao.
Đức thánh nữ tuyển vào cung cấm,
Quản lục cung đằm thắm thiên hương.
Giúp trong trị nước yên bang,
Chu mười tôi, có Ấp-Khương mới vừa.
Đức nghĩa-nữ duyên ưa quyền quí,
Tước Phu-nhân Điện-súy ngôi cao.
Bia non ghi tạc huân lao,
Rõ ràng chung đỉnh, giồi giào móc mưa.
Khôn đức đều vẹn bề trinh thục,
Giá đã đành kim ốc nhường ai?
Phòng tiêu sớm đội ơn giời,
Trâm anh nếp cũ, lâu đài nền xưa.
Trên tử-điện sớm trưa chầu chực,
Áo cẩm bào sực nức danh hương.
Thâm nghiêm lầu Hán, cung Đường,
Kìa triêu-dương với phần-hương khác nào.
Bài văn tán Phạm Điện-súy thượng-tướng-quân
Buổi giời đất xây nên thềm thái,
Trên thánh-quân dưới lại hiền-thần.
Tao phùng long hổ phong vân,
Ngoài biên trong nước kinh luân có người.
Hoàng-Trần thủa thay giời ngự thế,
Vững âu vàng kế kế thừa thừa.
Võ công qua vượt nghìn xưa,
Sông Đằng tăm ngạc quét trừ sạch trong.
Thiên-tử mới khoan lòng cán thực,
Thượng-phụ vừa nghỉ sức ưng dương.
Cơ giời sâu sắc khôn lường,
Lại gây ngoại hoạn, để cường quân tâm.
Khói lang chợt âm thầm ngoài ải,
Chiêm, Lào quen phong mại thói xưa.
Ấy ai chém tướng giật cờ?
Nối thơm thượng-phụ bấy giờ chưa ai.
Đời có loạn sinh tài dẹp loạn,
Sá chi bàn Lý-Quảng, Á-Phu.
Hải-dương này đất Đường-phù,
Địa hình ngũ mã, ngũ phù tú chung.
Mạch Văn-khúc hồi long cố tổ,
Cảnh hữu sa bạch-hổ chiển kì.
Đất thiêng sinh bậc anh kì,
Kén tài thượng-tướng giời kia đã đành.
Gánh non sông, thu hoành nhất sáo,
Thét hùm beo, khí tảo thiên quân.
Tài cao ngụ bốn câu thần,
Tôn, Ngô, Lý, Đỗ võ văn gồm tài.
Mắt sô-tốt biết ai quốc-sĩ,
Mũi kim-qua chạm vế Tô-công.
Lặng ngồi chẳng chút động dong,
Mặc ai xe ngựa ruổi rong trên đường.
Đức thượng-phụ có gương Đức-Tháo,
Coi tướng người dong mạo hiên ngang.
Hỏi ra tài học phi thường,
Đã thông kinh sử, lại thường lược thao.
Dinh Vạn-kiếp áo trao Hàn-tử,
Lối Thượng-hồng xe ngựa Tề-khương.
Quán sanh êm khúc loan hoàng,
Trong quân Nương-tử chủ trương có người.
Lượng sương hải yêu tài bảo chướng,
Cửa tử-vân kém tướng can thành.
Tự khi đánh phá Nguyên-binh,
Lĩnh quân Dực-thánh tuần hành nam-cương.
Y kỉ luật, cờ giương trống gióng,
Chỉnh uy dung, đai rộng cừu khinh.
Tràng-an thiên-tử tri danh,
Trao tướng ấn, tới biên thành đổng binh.
Hộ thánh-giá thân chinh Lao khấu,
Cứu thân-vương phá thấu trùng vi.
Trúc can lẫm liệt ra uy,
Dư muôn tuần-tượng xô về một tay.
Cờ đại-tướng tuyết bay sao ruổi,
Sông Tràng-long kình nổi sóng êm.
Tiệp-thư hai thứ dâng lên,
Cố cương đem lại thốn kim sơn hà.
Chiếu ngọc bệ khen tay kham bát,
Trải ba triều gánh vác gian lao.
Năm lần phù ấn vinh bao,
Tiến phong Điện-súy dự vào sủng chương.
Bài văn tán các quan văn võ bộ hạ
Trên ngọc điện chín lần mây phủ,
Cõi Việt-nam địa tú chung linh.
Trần triều đang thủa thanh bình,
Nửa nghìn năm, gặp hội lành minh lương.
Đức vương-phụ thiên-hoàng diễn phái,
Ngọc phổ trong dòng dõi thần minh.
Thử xem tạo-hóa hữu tình,
Bể non đúc cả tú linh một nhà,
Cửa vương-mẫu gió hòa mưa thụy,
Mộng Thanh-bào tiên-tử giáng sinh.
Tài văn võ, đức thông minh,
Biên cương thành vững, triều-đình cột cao.
Nghe Nguyên khấu tàu vào cửa bể,
Tờ hịch trong chín bệ ban ra.
Khâm truyền hoàng-thúc hưng qua,
Thánh-vương trao lịnh ấn cờ Nguyên-nhung.
Bên vương-tử quốc-công tiết độ,
Bên tiếp tùy phò-mã thượng công.
Vĩnh-lâm là tướng tiên-phong,
Tả Yết, hữu Dã hai ông chu toàn.
Môn khách những Phùng-Hoan, Mao-Toại,
Văn giúp mưu, võ lại giúp uy.
Ba quân vâng lịnh chỉ huy,
Gia-thần giả nghĩa chủ tri phen này.
Đã được kẻ chém cây, khoan ván,
Lại sai người bắn đạn buông tên.
Hoàng-thân quốc-thích quí quyền,
Giương uy cũng giận giặc Nguyên quật cường.
Khắp miếu đường lưỡng ban văn võ,
Liệt quan quân đội ngũ chư doanh.
Đều cùng khâm mệnh đế-đình,
Đồng cừu một niệm tiến chinh cõi ngoài.
Thây Mã-Nhi chôn nơi bụng cá,
Xác Bá-Linh ba ngả chia phanh.
Sơn hà rửa sạch hôi tanh,
Tiếng ca lừng lẫy quân thanh khải hoàn.
Trên bệ ngọc long nhan hớn hở,
Nhạc Thiều tâu tiệc mở thưởng công.
Vương, công, hầu, tướng vinh phong,
Nổi danh hai nước anh-hùng nộp uy.
Hải nhạc đã thu về chính khí,
Đền Dược-sơn tụ tụy tinh anh.