Quốc văn trích diễm/106
106 — BÌNH ÔNG ĐẠI-CÁO
TIỂU DẪN. — Bài này là sau khi vua Lê Thái-tổ đã đánh đuổi người Minh lên ngôi vua, truyền cho ông Nguyễn-Trãi soạn ra để bá-cáo công mười năm bình-định cho thiên-hạ biết.
Việc nhân nghĩa cốt nhất ở yên dân, quân điếu phạt 1 không gì bằng trừ bạo.
Nước Đại-Việt ta, thật là một nước văn-hiến; kể từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, mấy đời gây dựng ra nước; so với Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi đằng làm đế một phương.
Mới rồi chỉ vì họ Hồ cơ cầu, đến nỗi lòng người ta oán. Nhà Minh nhân dịp hở, thừa thế hại dân; lũ ác rắp mưu gian, đem lòng bán nước. Kiếm cách lừa dối thiên-hạ, kể nghìn muôn lối gớm ghê; gẫm từ gây việc binh-đao, đã hai mươi năm tai vạ. Nhân nghĩa vứt đi hết, thế-giới thế thì thôi! Thuế má vét cho nhiều, núi sông chẳng còn gì cả! Thần-nhân đều lấy làm giận, trời đất cũng không thể dung!
Ta đây, phát tích từ núi Lam-sơn, ẩn thân ở chỗ hoang-giã. Đau lòng nát ruột, chốc đà mười mấy năm trời; nuốt đắng nằm gai 2, nào phải một ngày nay đó. Đương khi cờ nghĩa mới nổi, chính lúc thế giặc vẫn hăng. Lương chứa Linh-sơn, 3 mấy tuần đã cạn; quân tan Khôi-huyện 4, một đứa chẳng còn. Tụ tập mấy lũ lưu dân, vác cần-câu mà đánh giặc; gắn bó một lòng phụ tử, rót rượu ngọt để khao quân.
Thành ra: vì đại nghĩa mà thắng được hung tàn, lấy chí nhân mà thay cho cường bạo; kẻ kia bó tay mà ngồi chịu chết, quân ta không đánh mà giặc phải tan. Bọn tướng giặc đã bị bắt rồi, van lạy xin thương làm phúc; bụng hiếu-sinh ta cũng mở rộng, thần vũ chẳng giết làm gì. Kìa tham-tướng Phương-Chính, kìa nội-quan Mã-Kỳ 5, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, lúc qua sông mà hãy còn mất vía; nọ tổng-binh Vương-Thông, nọ tham-chính Mã-Anh 6, cấp cho mấy nghìn con ngựa, khi về nước mà vẫn còn giật mình. Họ đã sợ chết tham sống mà xin cùng ta giảng hòa; ta lấy toàn quân là hơn mà muốn cùng dân yên nghỉ.
Cho hay:
Ba quân đã đến ngày đại-định, kỷ-niệm công vô-địch về sau;
Bốn bể gây nên cuộc thái-bình, bá-cáo lời duy-tân từ đó!
(Theo bản lược-dịch của ông Trần-trọng-Kim trong sách Việt-nam sử-lược).
CHÚ THÍCH. — 1. Điếu phạt 弔 伐: thương dân đánh giặc. — 2. Dịch chữ thường đởm ngọa tân 甞 膽 臥 薪. Điển cũ: vua Câu-Tiễn nước Việt, trong khi mưu báo thù nước Ngô, thường nuốt mật đắng, nằm trên đống củi gai để không quên sự lo nghĩ. — 3. Tức là núi Chí-linh, nay thuộc phủ Chấn-định tỉnh Nghệ-an; vua Lê thường đóng quân ở đấy. — 4. Tên đồn, thuộc tỉnh Nghệ-an, là chỗ vua Lê bị quân Minh đánh một trận thua to. — 5. 6. Tên các tướng tá nhà Minh sai sang đánh nước ta.
CÂU HỎI. — I. Ý tưởng. — Cáo là gì? Bài này chủ ý nói những điều gì? — Chia bài này ra làm 4 đoạn và tóm đại-ý mỗi đoạn. — Tội ác của nhà Minh những gì? — Công khó nhọc của vua Lê thế nào? — Bụng khoan dung đại độ của ngài biểu lộ ra thế nào?
II. Lời văn. — 1. Nước Nam ta về đời nào tên là Đại-Việt? Kể các tên của nước ta tự xưa đến giờ. — Nghĩa chữ văn-hiến. — Nói qua về họ Hồ. — Trời đất cũng không thể dung: ý nói gì? — Núi Lam-sơn ở đâu? — Đau lòng nát ruột, nuốt đắng nằm gai: ý nói gì? — Nghĩa chữ cờ nghĩa, chữ toàn quân.
2. Văn-pháp bài này thế nào? Giọng văn có vẻ gì? Lấy một câu mà cắt nghĩa phép « đối » trong văn ta.
Chú thích
- ▲ Xem tiểu-truyện tác-giả ở tr. 60.