Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm
100 — Thành Bình-định cùng nhau ba tử tiết của Hoàng Cao Khải

100 — THÀNH BÌNH-ĐỊNH CÙNG NHAU BA TỬ TIẾT

TIỂU DẪN. — Coi việc ông Võ-Tính và ông Ngô-tòng-Chu tử tiết ở đoạn tiểu-dẫn về bài văn-tế hai ông, tr. 130.

(Ông Võ-Tính đương ngồi bàn việc cùng hai ông Ngô-tòng-Chu và Nguyễn-tấn-Huyên, có tướng-tá đến trình rằng lương thực đều hết cả, ông bèn nói:)

Võ-Tính viết. — (Nếu như vậy) nay nhất đán sự cơ tương bách, e tam quân tính mạng nan toàn; mình ta an giấc suối vàng, cho quân sĩ thoát vòng mũi bạc.

Hựu viết. — (Ới quan Phó-soái, tôi nói thiệt cùng người, như tôi bây giờ) lầu tám góc đành chôn lửa đỏ, cửa chín lần 1 ngỏ giải lòng đan; (tôi nghĩ rằng quân giặc nó giết thì nó chỉ giết một mình tôi mà thôi, bởi vậy cho nên) người, văn-quan, lo lấy tự toàn, tôi, võ-tướng, đà cam chịu thác.

Ngô-tòng-Chu viết. — (Dạ, thưa quan Nguyên-soái dạy làm vậy, nhưng rứa mà tôi nghĩ rằng văn võ cũng là tôi Triều-đình cả mà tới nay) người đã không úy tử, tôi cũng quyết quyên sinh; do lai văn võ lưỡng đồ, đồng thị tôn thân nhất niệm 2.

Võ-Tính viết. — Hảo trượng-phu chi chí khí (a)

Ngô-tòng-Chu viết. — Tôi xin lui.

Ngô-tòng-Chu vào.

Võ-Tính viết. — (Tổng-binh Nguyễn-tấn-Huyên, như ta cùng ngươi lâm cơ hoạn nạn, không có lẽ rằng hai ta cùng chết cả, một người mất thì phải một người còn, cũng bởi vì) nước còn đương nhiều nạn, tôi âu dễ mấy người; ta đã đành hết đạo làm tôi, ngươi cũng phải dành mình giúp chúa.

Nguyễn-tấn-Huyên viết. — (Dạ, dám thưa quan Nguyên-soái, như người dạy làm vậy, nhưng rứa mà còn thì ta còn với nhau, mất thì ta mất với nhau; nếu mà kẻ còn người mất như thế sao đành mà) tôi hết lòng với chúa, tớ giả nghĩa cùng thầy, (như tôi bây giờ) tử sinh quyết ở phen này, giúp-giập thiếu gì người khác.

Võ-Tính viết. — Hảo nam-tử chi hung khâm (a).

Hựu viết. — Hai người ta quyết kế, lầu Bát-giác sửa sang; củi khô thuốc súng sẵn sàng, ba ngày sẽ lên đàn hỏa (a).

Đều vào. — Ngô-tòng-Chu ra.

Ngô-tòng-Chu viết. — (như ta nay) thân quản gì lầm cát, lòng đối với giang-san; dẫu không tài dược mã khóa an 3, chẳng kém kẻ thao chùy bỉnh tiết 4; chí này đành đã quyết, (quân), độc-dược khả tương lai.

Quân mang thuốc độc lại.

Ngâm viết. — (Xưa nay ai cũng nói văn-thần úy tử, nay ta là văn-thần, nào ta có sợ chết đâu mà). Này thực gan già chẳng phải non, (Như ta chết làm vậy cũng là muốn trước là trả nghĩa cho vua, sau là đền ơn cho nước, bởi vậy cho nên) Cứng như vàng đá đỏ như son.

(Thuốc này là thuốc độc hè) Thuốc này xin chớ cho là độc.

(Bởi ta có chết đi nữa cũng là được thơm danh về sau, thế thì uống vào chẳng là ngon ru) Danh tiết mùi thơm chắc của ngon.

Ngô-tòng-Chu uống thuốc độc rồi tạ thế. — Quân ra.

Báo viết. — (Dạ dạ) quan Hiệp-trấn đã mất rồi.

Võ-Tính nghe báo vội-vàng chạy ra.

Võ-Tính viết. — (Nào ở đâu nào . . . . . quan Hiệp-trấn đã mất thiệt rồi nọ, như mầng ri) Khóc vì tình bầu-bạn, mừng vì nghĩa vua tôi, khen cho xem thác như chơi, tiếc chẳng đợi ta ít nữa.

Than rằng: (hiền huynh ôi!) Ai là không thác, đạo phải cho tròn; thương thay hiền-hữu, lòng đỏ như son; vì nòi, vì giống, vì nước, vì non; dẫu nghìn năm nữa, bia miệng không mòn.

Hựu viết. — Cám thương nghĩa cũ, mai táng đã an; cách hai ngày ta sẽ đăng đàn (quân), truyền chư tướng đồng lai hội diện.

Đem xác ông Ngô-tòng-Chu vào rồi các hàng chư tướng đều ra.

Hựu viết. — (Chư tướng) tờ này hiển thị, khắp các quan binh; (ta xin cám ơn các ông nghe) từ khi ta trấn thủ cô thành, nhờ tướng sĩ hết lòng trung phẫn; nay binh bì thực tận, mà lực kiệt thế cùng; (ta nghe lời cổ-ngữ có nói rằng:) « Thành tồn dữ tồn, thành vong dữ vong » 5, (nhưng rứa mà ta dẫu có chết đi nữa, không có để giặc nó thấy mặt ta đâu, bởi vậy cho nên) thành này thệ dữ câu vong, giặc nọ bất dung kiến diện; (tướng-quân Nguyễn-văn-Thịnh nghe ta dặn), gửi Tây-tướng phong thư nhất phiến, ta mất rồi ngươi khá giao lai; (thôi thôi) xin từ giã mọi người, (Nguyễn-tấn-Huyên) sẽ lên lầu đồng tọa.

Võ-Tính giao thư cho Nguyễn-văn-Thịnh rồi cùng Nguyễn-tấn-Huyên ngồi trên lầu. — Khi ngồi trên lầu thì Võ-Tính miệng hút thuốc lá.

Chư Tướng đồng viết. — Trông thấy lầu cao tám góc, nhìn qua củi chất tứ bề; xương đồng da sắt khôn bì, dạ ngọc gan vàng mấy kẻ.

Đồng vãn viết. — Dạ ngọc gan vàng mấy kẻ, tấm lòng này, hầu dễ đan thanh; cô thân đối với cô-thành, dẫu nghìn năm nữa thơm danh vẫn còn.

Võ-Tính viết. — Thiên niên y thành quách, vạn cổ thử giang san; thương thay trăm họ lầm than, hầu dễ một mình êm mát.

Vãn viết. — Hầu dễ một mình êm mát, quyết phen này ngọc nát vàng tan; mình này đối với giang san, may ra miếu xã lại hoàn như xưa.

Chư Tướng đồng viết. — Sư sinh chân thiên cổ, oanh-liệt tú nhất trường 6; (như anh em tôi bây giờ) xét mình luống những hổ hang, nhớ bạn càng thêm thương tiếc.

Đồng vãn viết. — Nhớ bạn càng thêm thương tiếc, nghĩ sinh ly tử biệt mà đau; hai hàng giọt lụy tuông châu, trông ra nước thảm non sầu biết bao.

Nguyễn-tấn-Huyên viết. — Trên hết ngay với chúa, dưới trọn nghĩa cùng thầy; thủy chung mong trả ơn dầy, ly biệt càng thương nghĩa cũ.

Vãn viết. — Ly biệt càng thương nghĩa cũ, tấm lòng này biết thuở nào khuây; âm dương hai ngả chia tay, tồn vong âu cũng thảo ngay một niềm.

Võ-Tính viết. — (Nguyễn-văn-Biện) truyền phóng hỏa.

Nguyễn-văn-Biện lấy lửa, xong rụt-rè không dám đốt rồi bỏ mà chạy.

Hựu viết. — (Thôi thôi xin các ông lui ra đừng khóc làm chi nữa mà) một lời xin từ giã, các tướng phải lui xa; tàn thuốc ném ra, tức thời phóng hỏa.

Đoạn nói rồi, ông Võ-Tính ném tàn thuốc lá ở điếu thuốc đang hút xuống, tức thì thuốc súng bén lửa lên.

Chư Tướng đồng viết. — Chân thống thiết, chân thống thiết; tối ai liên, tối ai liên; linh khí dĩ qui thiên, ai thanh hề chấn địa 7.

Than rằng: Hai đống gio[1] tàn, bốn bề lửa đỏ; còn biết lấy ai nương dựa, để mà giúp nghiệp gian nan.

Hoàng-cao-Khải[2] (Tượng kỳ khí xa, hồi thứ nhì, cảnh thứ năm).

CHÚ THÍCH. — 1. Là cửa nhà vua thường xây chín bực, chữ nho là cửu trùng khuyết. — 2. Câu này nghĩa là: xưa nay quan văn quan võ hai đường, đều là một lòng tôn vua. — 3. Dược mã khóa an 躍 馬 跨 鞍 là nhẩy ngựa lên yên. Cách quan võ. — 4. Thao chùy là cầm dùi, theo tích ông Trương-Lương, vì nhà Hán báo thù nhà Tần, mượn một người lực-sĩ cầm dùi đánh vua Tần Thủy-hoàng. Bỉnh tiết là cầm cờ tiết, theo tích ông Tô-Vũ nhà Hán sang sứ nước Hung-nô, phải vua nước ấy giam mà giữ cờ tiết nhà Hán đến 15 năm mới về. — 5. Thành còn cùng còn, thành mất cùng mất. — 6. Nghĩa là: thật nghìn đời mới có hai thầy trò ấy (chỉ ông Tính và ông Huyên), cùng nhau đều chết một cách oanh-liệt. — 7. Nghĩa là khí thiêng đã lên trời (ý nói chết rồi), tiếng khóc chừ động đất.


   




Chú thích

  1. Tro. —
  2. Coi tiểu-truyện tác-giả ở tr. 27.