Việt Nam sử lược/Quyển II/1971/Phần V/Chương II

CHƯƠNG II

THÁNH-TỔ (1820 - 1840)
Niên-hiệu:
Minh-mệnh 明 命

  1. Đức-độ vua Thánh-tổ
  2. Việc chính-trị trong nước
  3. Nội-các
  4. Cơ-mật-viện
  5. Tôn-nhân-phủ
  6. Quan-chế
  7. Đặt tổng-đốc, tuần-phủ ở các tỉnh
  8. Lương-bổng của các quan
  9. Tiền dưỡng-liêm
  10. Sự học-hành thi-cử
  11. Sách-vở
  12. Việc sửa-sang phong-tục
  13. Nhà dưỡng-tế
  14. Việc đinh-điền và thuế-má
  15. Việc võ-bị

1. ĐỨC-ĐỘ VUA THÁNH-TỔ. Tháng giêng năm canh-thìn (1820), Hoàng thái-tử húy là Đảm 膽 lên ngôi, đặt niên-hiệu là Minh-mệnh 明 命.

Vua Thánh-tổ là một ông vua có tư-chất minh-mẫn, có tính hiếu học và lại hay làm; phàm có việc gì, ngài cũng xem-xét đến, và có châu phê rồi mới được thi-hành.

Ngài tinh thâm Nho-học, sùng đạo Khổng Mạnh, cho nên không ưa đạo mới, cho là một tả đạo lấy trời thánh ra mà làm mê-hoặc lòng dân. Bởi vậy, ngài mới nghiêm cấm và trừng-trị những người theo đạo Gia-tô.

Về sau có nhiều nhà làm sử, vì ý riêng mà cho ngài là bạo quân, thì thiết-tưởng điều ấy không hợp với lẽ công bằng.

Phải biết rằng nước ta từ xưa đến nay, điều gì cũng theo Nho-giáo, lấy tam-cương ngũ-thường làm căn-bản cho sự ăn-ở. Vua tôi, cha con, vợ chồng, ấy là cái khóa luân-lý của xã-hội mình. Ai tháo cái khóa ấy ra thì cho là không phải loài người nữa. Vậy con phải theo cha, tôi phải theo vua, ai trái với cái đạo ấy ra phải tội nặng, đáng chém giết.

Lúc trong nước mình từ vua quan cho chí dân-sự, ai ai cũng lấy cái lý-tưởng ấy làm phải, làm hay hơn cả, mà lại thấy có người bỏ đi theo đạo khác, nói những chuyện mà lúc bấy giờ lại không mấy người hiểu rõ ra thế nào thì tất cho là theo tả đạo làm hư-hỏng cái phong-tục hay của mình. Bởi vậy cho nên nhà vua mới cấm, không cho người trong nước đi theo đạo mới.

Một ông vua nghiêm-khắc như Thánh-tổ mà cấm không được, thì tất là phải giết. Trong khi cấm và giết như vậy, là vẫn tưởng mình làm việc bổn-phận làm vua của mình, chớ có biết đâu là mình làm sự thiệt-hại cho dân cho nước.

Vả, bao giờ cũng vậy, hễ người ta đã sùng-tín một tông-giáo nào, thì tất cho cái tông-giáo của mình là hay hơn, và cho người theo tông-giáo khác là thù-nghịch với mình, rồi hễ có quyền-thế là làm thế nào cũng dùng cách mà hà-hiếp người khác đạo với mình. Cũng vì lẽ ấy, cho nên ngày trước Vua Philippe II nước I-pha-nho, vua Louis XIV nước Pháp-lan-tây giết hại bao nhiêu người trong nước. Mà chắc rằng lúc bấy giờ các ông ấy cũng tưởng là mình làm điều phải, chớ có biết đâu là mình làm điều trái lẽ.

Vẫn biết rằng sự giết đạo là sự không lành, nhưng phải hiểu cái trí-não người Việt-nam ta lúc bấy giờ, không rõ cái tông-chỉ đạo Thiên-chúa ra thế nào, cho nên dẫu không phải là vua Thánh-tổ nữa, thì ông vua khác cũng không chắc đã tránh khỏi cái lỗi giết đạo ấy.

Nhà làm sử lại đổ cho vua Thánh-tổ giết Nguyễn văn Thành, song xét trong các truyện như sách Thực lục-chính biên và sách Đại-nam chính biên liệt-truyện, thì chỉ thấy chép rằng Nguyễn văn Thành bị tội phải uống thuốc độc mà tự-tử năm Gia-long thứ 15 mà thôi. Còn như vụ án Lê văn Duyệt và Lê Chất thì có hẹp-hòi thật, nhưng khi các ông ấy đã mất rồi, và lại vì có tên Khôi khởi loạn cho nên mới truy tội hai ông ấy mà làm án, chứ lúc hai ông ấy còn sống, thì vua Thánh-tổ, tuy có bụng nghi-ngờ, nhưng vẫn không bạc-đãi.

Việc ngài giết chị dâu là bà vợ Hoàng-tử Cảnh và các cháu, thì không thấy sách nào chép cả, chỉ thấy một đôi người truyền ngôn như thế mà thôi. Vậy việc ấy thực hư thế nào không rõ.

Còn việc không biết giao-thiệp với các nước ngoại dương, thì không phải là cái lỗi riêng một mình ngài. Lúc bấy giờ người mình ai cũng chỉ biết có nước Tàu là văn-minh hơn, còn thì cho là man-di cả. Phỏng sử có ai là người biết mà nói ở thiên-hạ còn có nhiều nước văn-minh hơn nữa cũng không ai tin. Bởi thế, hễ thấy người ngoại quốc vào nước mình, thì không những là sợ có sự phản-trắc và sợ đem đạo mới vào nước mà thôi, lại còn sợ lây phải cái phong-tục dã-man nữa, cho nên không muốn giao-thông với ngoại quốc làm gì. Như thế thì có nên riêng trách một mình ai không?

Cái nghĩa-vụ người làm sử, tưởng nên kê-cứu cho tường-tận, rồi cứ sự thực mà nói, chứ không nên lấy lòng yêu-ghét của mình mà xét đoán. Dẫu người mình ghét mà có làm điều phải, mình cũng phải khen; người mình yêu mà có làm điều trái, mình cũng phải chê. Vua Thánh-tổ là một ông vua chuyên-chế, tất thế nào cũng có nhiều điều sai-lầm và có nhiều điều tàn-ác, nhưng xét cho kỹ, thì thật ngài cũng có lòng vì nước lắm. Trong, lo sửa-sang mọi việc, làm thành ra nền-nếp chỉnh-tề, ngoài, đánh Tiêm dẹp Lào, làm cho nước không đến nỗi kém hèn.

Vậy cứ bình tình mà xét, thì dẫu ngài không được là ông anh-quân nữa, thì cũng không phải là ông vua tầm-thường; cứ xem công-việc của ngài làm thì hiểu rõ.

2. VIỆC CHÍNH-TRỊ TRONG NƯỚC. Vua Thánh-tổ đã 30 tuổi mới lên ngôi vua, cho nên việc triều-chính ngài đã am-hiểu lắm. Việc gì ngài cũng muốn biết. Có khi xong buổi chầu rồi, ngài đòi một vài quan đại-thần lên bàn mọi việc kinh-lý và hỏi những sự-tích đời xưa, những nhân-vật và phong-tục ở các nước xa lạ. Ngài chăm xem-xét mọi việc, có khi đêm thắp đèn xem chương, sớ, đến trống hai, trống ba mới thôi. Thường thường ngài nói với các quan rằng: Lòng người ai cũng muốn ở yên, mà không muốn sinh sự ra để thay-đổi luôn, nhưng lúc trẻ mạnh mà không sửa-sang mọi việc, thì rồi đến lúc già-yếu, mỏi-mệt còn làm gì được. Bởi vậy cho nên trẫm không dám lười-biếng lúc nào[1].

Ở trong triều, thì ngài đặt thêm ra các tự 寺 và các viện 院. Bấy giờ có Nội-các 内 閣 và Cơ-mật-viện 机 密 院 là quan-trọng hơn cả.

3. NỘI-CÁC. Đời vua Thế-tổ đã đặt Thị-thư-viện 侍 書 院 làm chốn cơ-yếu ở trong điện, để có điều gì thì vua hỏi-han và làm các việc như biểu, sách, chế, cáo, chương, tấu, sắc, mệnh v.v. Đại-khái cũng tự hồ phòng bí-thư của vua vậy.

Năm canh-thìn (1820) là năm Minh-mệnh nguyên niên, vua Thánh-tổ cải làm Văn-thư-phòng; đến năm Minh-mệnh thứ mười (1829), đổi làm Nội-các 内 閣, lấy quan tam-tứ phẩm ở các bộ, viện, vào quản-lĩnh mọi việc.

4. CƠ-MẬT-VIỆN. Năm giáp-ngọ (1834) là năm Minh-mệnh thứ 15, nhân vì việc quân-quốc cơ-yếu là việc rất quan-trọng, vua Thánh-tổ mới theo như Khu-mật-viện nhà Tống và Quân-cơ-xứ nhà Thanh mà châm-chước đặt ra Cơ-mật-viện 机 密 院, cho có trách-nhiệm riêng. Các quan đại-thần sung chức trong viện ấy thì dùng 4 viên, văn võ từ tam-phẩm trở lên, phụng chỉ kén dùng. Thuộc-viên thì có viên ngoại-lang, chủ-sự, tư-vụ, biên-tu, đều kén ở trong các bộ viện ra sung-bổ. Các quan đại-thần ở Cơ-mật-viện có đặc chỉ cho đeo kim-bài để phân-biệt với các quan khác. Kim-bài khởi đầu có từ đấy.

5. TÔN-NHÂN PHỦ. Năm bính-thân (1836) là năm Minh-mệnh thứ 17, vua Thánh-tổ đặt ra Tôn-nhân-phủ 尊 人 府 và đặt quan chức để coi mọi việc ở trong họ nhà vua.

Nhà vua thờ tiên-tổ có 7 miếu: những miếu phía tả gọi là chiêu 昭, những miếu phía hữu gọi là mục 穆. Con cháu các dòng chiêu hay là mục phải phân-biệt chi nào ra chi ấy.

Đặt-tôn-nhân-lệnh một người, tả hữu tôn chính hai người, tả hữu tôn-nhân hai người, để coi việc hoàng-tộc và việc phân-biệt tự hàng chiêu hàng mục, ghi-chép hàng lượt người thân người sơ, việc nuôi-nấng và cấp tước-lộc cho mọi người trong hoàng-tộc; lại đặt ra hữu tôn-khanh hai người, tả hữu tá-lý hai người, để coi thứ-trật mọi người tôn-thất và việc cấp-dưỡng cho kẻ cô-ấu, giúp-đỡ những việc tang-hôn v.v.

6. QUAN-CHẾ. Vua Thánh-tổ lại đặt các phẩm-cấp quan-chế, từ nhất phẩm đến cửu-phẩm, mỗi phẩm chia ra làm chánh và tòng hai bậc.

CHÁNH NHẤT-PHẨM:

Văn: Cần-chính-điện đại-học-sĩ 勤 政 殿 大 學 士, Văn-minh-điện đại-học-sĩ 文 明 殿 大 學 士, Võ-hiển-điện đại-học-sĩ 武 顯 殿 大 學 士, Đông-các đại-học-sĩ 東 閣 大 學 士.

: Ngũ-quân Đô-thống phủ đô-thống chưởng-phủ-sự 五 軍 都 統 府 都 統 掌 府 事.

TÒNG NHẤT-PHẨM:

Văn: Hiệp-biện đại-học-sĩ 協 辦 大 學 士.

: Ngũ-quân Đô-thống phủ đô-thống 五 軍 都 統 府 都 統.

CHÁNH NHỊ-PHẨM:

Văn: Thượng-thư, tổng-đốc, tả hữu đô-ngự-sử.

: Thống-chế, đề-đốc.

TÒNG NHỊ-PHẨM:

Văn: Tham-tri, tuần-phủ, tả hữu phó-đô-ngự-sử.

: Chưởng-vệ, khinh-xa đô-úy, đô-chỉ-huy-sứ, phó đề-đốc.

CHÁNH TAM-PHẨM:

Văn: Chưởng-viện học-sĩ, thị-lang, đại-lý tự-khanh, thái-thường tự-khanh, bố-chính-sứ, trực-học-sứ, thông-chính-sứ, thiêm-sự, phủ-doãn.

: Nhất-đẳng thị-vệ, chỉ-huy-sứ, thân-cấm-binh vệ-úy, lãnh-binh.

TÒNG TAM-PHẨM:

Văn: Quang-lộc tự-khanh, thái-bộc tự-khanh, thông-chính phó-sứ.

: Binh-mã-sứ, tinh-binh vệ-úy, thâm-cấm-binh phó vệ-úy, phó lãnh-binh, kiêu-kỵ đô-úy, phò-mã đô-úy.

CHÁNH TỨ-PHẨM:

Văn: Hồng-lô tự-khanh, đại-lý-tự thiếu-khanh, thái-thường-tự thiếu-khanh, tế-tửu, lang-trung, thị-độc học-sĩ, thiếu-thiêm-sự, thái-y viện-sứ, tào-chính-sứ, phủ-thừa, án-sát-sứ.

: Quản-cơ, nhị-đẳng thị-vệ, binh-mã phó-sứ, tinh-binh phó vệ-úy, thành-thủ-úy.

TÒNG TỨ-PHẨM:

Văn: Quang-lộc-tự thiếu-khanh, thái-bộc-tự thiếu-khanh chưởng-ấn, cấp-sự-trung, thị-giảng-học-sĩ, kinh-kỳ-đạo ngự-sử, tư-nghiệp, từ-tế-sứ, quản-đạo.

: Phó quản-cơ, tuyên-úy-sứ, kị-đô-úy.

CHÁNH NGŨ-PHẨM:

Văn: Hồng-lô-tự thiếu-khanh, giám-sát ngự-sử, hàn-lâm-viện thị-độc, viên-ngoại-lang, trưởng-sử, từ-tế phó-sứ, ngự-y, giám-chánh, tào-chánh phó-sứ, đốc-học, phó quản-đạo.

: Tam-đẳng thị-vệ, thân-cấm-binh chánh-đội-trưởng, phòng-thủ-úy.

TÒNG NGŨ-PHẨM:

Văn: Hàn-lâm-viện thị-giảng, hàn-lâm-viện thừa-chỉ, miếu-lang, giám-phó, phó trưởng-sử, phó ngự-y, tri-phủ.

: Tinh-binh chánh-đội, tứ-đẳng thị-vệ, thân-cấm-binh chánh đội-trưởng suất-đội, tuyên-phó-sứ, phi-kị-úy.

CHÁNH LỤC-PHẨM:

Văn: Hàn-lâm-viện trước-tác, chủ-sự, đồng tri-phủ, kinh-huyện, tri-huyện, y-tả viện-phán, ngũ-quan-chánh.

: Ngũ-đẳng thị-vệ, cẩm-y hiệu-úy, tinh-binh chánh-đội-trưởng suất-đội, thổ-binh chánh-đội, trợ-quốc-lang.

TÒNG LỤC-PHẨM:

Văn: Hàn-lâm-viện tu-soạn, tri-huyện, tri-châu, miếu-thừa, học-chánh, thông-phán, thổ tri-phủ, y-hữu viện-phán.

: Thân-cấm binh chánh đội-trưởng, ân-kị-úy, thổ-binh chánh-đội-trưởng suất-đội.

CHÁNH THẤT-PHẨM:

Văn: Hàn-lâm-viện biên-tu, tư-vụ, lục-sự, giám-thừa, giám-linh đài-lang, giáo-thụ, kinh-lịch.

: Thân-cấm-binh chánh-đội-trưởng, nội-tạo tư-chánh-tượng, tinh-binh chánh-đội-trưởng.

TÒNG THẤT-PHẨM:

Văn: Hàn-lâm-viện kiểm-thảo, y-chánh, tinh-linh đài-lang, thổ tri-huyện, tri-châu.

: Tinh-binh đội-trưởng, phụng-ân-úy, dịch-thừa, tòng-thất-phẩm thiên-hộ, nội-tạo phó tư-tượng.

CHÁNH BÁT-PHẨM:

Văn: Hàn-lâm-viện điển-tịch, huấn-đạo, chánh bát-phẩm thơ-lại.

: Chánh bát-phẩm đội-trưởng, chánh bát-phẩm bá-hộ, dịch-mục, chánh bát-phẩm chánh tư-tượng.

TÒNG BÁT-PHẨM:

Văn: Hàn-lâm-viện điển-bạ, y-phó, tòng bát-phẩm thơ-lại.

: Tòng bát-phẩm đội-trưởng, tòng bát-phẩm bá-hộ, thừa ân-úy, tòng bát-phẩm phó tư-tượng.

CHÁNH CỬU-PHẨM:

Văn: Hàn-lâm-viện cung-phụng, chánh cửu-phẩm thơ-lại, thái-y y-chánh, tự-thừa, phủ lại-mục.

: Chánh cửu-phẩm đội-trưởng, phủ lệ-mục, chánh cửu-phẩm bá-hộ, chánh cửu-phẩm tượng-mục.

TÒNG CỬU-PHẨM:

Văn: Hàn-lâm-viện đãi-chiếu, tòng cửu-phẩm thơ-lại, tỉnh y-sinh, huyện lại-mục, chánh-tổng.

: Tòng cửu-phẩm đội-trưởng, tòng cửu-phẩm bá-hộ, huyện lệ-mục, tòng cửu-phẩm tượng-mục.

7. ĐẶT TỔNG-ĐỐC, TUẦN-PHỦ Ở CÁC TỈNH. Nguyên trước nước Nam ta chia ra làm từng trấn, có quan Trấn-thủ, hay là quan Lưu-trấn để coi việc trong trấn. Từ đời Gia-long trở đi, ở Bắc-thành và Gia-định-thành đặt quan Tổng-trấn và quan Hiệp-trấn, để coi việc quân và việc dân trong cả toàn xứ.

Đến năm tân-mão (1831) là năm Minh-mệnh thứ 12, vua Thánh-tổ mới theo lối nhà Thanh, đổi trấn làm tỉnh và đặt chức tổng-đốc 總 督, tuần-phủ 巡 撫, bố-chính-sứ 布 政 使, án-sát-sứ và lĩnh-binh 領 兵.

Tổng-đốc thì coi việc quân, việc dân, khảo-hạch quan lại, sửa-sang bờ-cõi ở trong hạt; tuần-phủ thì coi việc chính-trị, giáo-dục và giữ-gìn phong-tục; bố-chính-sứ thì coi việc thuế-má, đinh-điền, lính-tráng và triều-đình có ân trạch hay là cấm lệnh điều gì, thì phải tuyên cho mọi nơi biết; án-sát-sứ thì coi việc hình-luật và kiêm cả việc trạm-dịch bưu-chính; lĩnh-binh thì chuyên coi binh-lính.

Từ tuần-phủ trở xuống đều phải theo lệnh quan tổng-đốc. Thường thì tỉnh nào lớn, có lắm việc quan-trọng mới đặt Tổng-đốc để quản-trị cả hai ba tỉnh. Còn những tỉnh nhỏ thì chỉ đặt tuần-phủ là quan đầu tỉnh[2]. 8. LƯƠNG-BỔNG CỦA CÁC QUAN VIÊN. Năm kỷ-hợi ( 1839 ) là năm Minh-mệnh thứ 20, vua Thánh-tổ định lương-bổng đồng niên và tiền xuân-phục của các quan-viên.

Chánh nhất phẩm : tiền 400 quan, gạo 300 phương, tiền xuân-phục 70 quan.
Tòng nhất phẩm : tiền 300 quan, gạo 250 phương, tiền xuân-phục 60 quan.
Chánh nhị phẩm : tiền 250 quan, gạo 200 phương, tiền xuân-phục 50 quan.
Tòng nhị phẩm : tiền 180 quan, gạo 150 phương, tiền xuân-phục 30 quan.
Chánh tam phẩm : tiền 150 quan, gạo 120 phương, tiền xuân-phục 20 quan.
Tòng tam phẩm : tiền 120 quan, gạo 90 phương, tiền xuân-phục 16 quan.
Chánh tứ phẩm : tiền 80 quan, gạo 60 phương, tiền xuân-phục 14 quan.
Tòng tứ phẩm : tiền 60 quan, gạo 50 phương, tiền xuân-phục 10 quan.
Chánh ngũ phẩm : tiền 40 quan, gạo 43 phương, tiền xuân-phục 9 quan.
Tòng ngũ phẩm : tiền 35 quan, gạo 30 phương, tiền xuân-phục 8 quan.
Chánh lục phẩm : tiền 30 quan, gạo 25 phương, tiền xuân-phục 7 quan.
Tòng lục phẩm : tiền 25 quan, gạo 22 phương, tiền xuân-phục 6 quan.
Chánh thất phẩm : tiền 25 quan, gạo 20 phương, tiền xuân-phục 5 quan.
Tòng thất phẩm : tiền 22 quan, gạo 20 phương, tiền xuân-phục 5 quan.
Chánh bát phẩm : tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân-phục 5 quan.
Tòng bát phẩm : tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân-phục 4 quan.
Chánh cửu phẩm : tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân-phục 4 quan.
Tòng cửu phẩm : tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân-phục 4 quan.
Lại-dịch binh tượng : mỗi tháng tiền một quan, gạo một phương.
Hậu bổ : mỗi tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương.

Từ nhất phẩm đến tam phẩm, mỗi năm hai kỳ trình giấy lĩnh bỗng; tự tứ phẩm đến thất phẩm, mỗi năm 4 lần, đến tháng cuối mùa xuân, hạ, thu, đông, trình giấy lĩnh bỗng; tự bát cửu phẩm trở xuống, thì cứ mỗi tháng đến lĩnh một kỳ.

Tiền lương-bổng của các quan-viên lúc bấy giờ mà so sánh với bây giờ, thì thật là ít-ỏi quá. Nhưng mà chắc là sự ăn-tiêu thủa trước rẻ-rúng không hết bao nhiêu. Nhà vua lại sợ những phủ huyện thiếu thốn mà nhũng-lạm của dân, cho nên mỗi năm lại phát thêm tiền dưỡng liêm.

9. TIỀN DƯỠNG LIÊM. Tri-phủ: tối yếu-khuyết cho 50 quan, yếu-khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản-khuyết 25 quan.

Đồng tri-phủ: tối yếu-khuyết cho 50 quan, yếu-khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản-khuyết 25 quan.

Tri-huyện, tri-châu: tối yếu-khuyết cho 40 quan, yếu-khuyết 30 quan, trung-khuyết 25 quan, giản-khuyết 20 quan.

10. SỰ HỌC-HÀNH THI-CỬ. Việc trị nước cần phải có văn-học, cho nên từ đời vua Thế-tổ cũng đã lưu ý về việc mở-mang sự học-hành. Đến đời vua Thánh-tổ thì ngài lại trọng sự văn-học lắm, ngài thường nói với các quan rằng: Đạo trị nước thì trước hết cần phải gây lấy nhân-tài. Bởi vậy ngài có lòng yêu-dùng những người có văn-học, cho các hương-cống vào làm hành-tẩu ở trong lục bộ, để học-tập việc chính-trị. Mở Quốc-tử-giám 國 子 監 cho các giám-sinh được lương-bổng ở ăn học.

Đời vua Thế-tổ thì chỉ có thi Hương mà thôi, đến năm nhâm-ngọ (1822) là năm Minh-mệnh thứ 3, mới mở khoa thi Hội, thi Đình để lấy tiến-sĩ, đến năm Minh-mệnh thứ 10 (1829) nhà vua lại cho những người trúng cách, nhưng không cập phân, được đỗ phó-bảng. Phó-bảng khởi đầu có từ đấy.

Nguyên trước cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm , ngọ, mão, dậu, thi Hương; năm thìn, tuất, sửu, mùi, thi Hội, thi Đình.

Phép thi thì vẫn theo như đời Gia-long, nghĩa là kỳ đệ-nhất: kinh nghĩa; kỳ đệ-nhị: tứ lục; kỳ đệ-tam: thi phú; kỳ đệ-tứ: văn sách. Trước ai đỗ tam-trường, gọi là sinh-đồ, ai đỗ tứ trường gọi là hương-cống, nay đổi sinh-đồ là tú-tài 秀 才, hương-cống là cử-nhân 舉 人.

Vua Thánh-tổ là ông vua thông-minh, ngài vẫn biết sự học của nước ta sai-lầm, những sĩ-phu trong nước chỉ học theo lối cử-nghiệp, nghĩa là cốt học lấy thi đỗ, chứ không mấy người có thực học. Thường ngài nói chuyện với các quan rằng: « Lâu nay khoa-cử làm cho người ta sai-lầm. Trẫm nghĩ văn-chương vốn không có qui-củ nhất-định, mà nay những văn cử-nghiệp chỉ câu-nệ cái hủ-sáo, khoe-khoang lẫn với nhau, biệt-lập mỗi nhà một lối, nhân-phẩm cao hay thấp do tự đó, khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân-tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập-tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại ». Vua Thánh-tổ thật là biết rõ cái tật của những người đi học ở trong nước ta, nhưng chỉ vì thói quen lâu ngày khó bỏ. Vả lại dẫu có muốn đổi, thì dễ thường cũng không biết đổi ra thế nào cho hay hơn được, cho nên sự học của mình vẫn nguyên như cũ.

11. SÁCH-VỞ. Vua Thánh-tổ mới lên ngôi, đã lo việc làm sách vở; ngài đặt ra Quốc-sử-quán 國 史 館 để góp nhặt những chuyện làm quốc-sử. Ngài lại lưu-ý về việc tưởng-lệ cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai tìm được sách cũ, hay làm ra sách mới, thì được ban thưởng. Tự đó ông Trịnh hoài Đức 鄭 懷 德 dâng sách: Gia-định thông chí 嘉 定 通 志 và sách Minh-bột di-hoán văn-thảo 明 渤 遺 渙 文 草; ông Hoàng công Tài 黄 公 才 dâng một bản Bản-triều ngọc-phả 本 朝 玉 譜, 2 bản Kỷ-sự 紀 事; ông Cung văn Hi 龔 文 曦 người ở Quảng-đức dâng 7 quyển Khai-quốc công-nghiệp diễn-chí 開 國 功 業 演 志; ông Nguyễn đình Chính 阮 廷 正 người Thanh-hóa dâng 34 quyển Minh-lương-khải cáo-lục 明 良 啟 告 錄; ông Vũ văn Tiêu 武 文 鑣, người Quảng-nghĩa, dâng một quyển Cố sự biên lục 故 事 編 錄.

Vua Thánh-tổ lại sai quan soạn xong bộ Liệt thánh thực lục tiền biên 列 聖 實 錄 前 編, bộ Khâm-định tiễu bình lưỡng kỳ phỉ khấu phương lược 欽 定 勦 平 兩 圻 匪 寇 方 略, còn sách của ngài soạn ra có hai bộ là Ngự-chế tiễu bình Nam-kỳ tặc khấu thi-tập 御 製 勦 平 南 圻 賊 寇 詩 集 và Ngự-chế thi tập 御 製 詩 集.

12. VIỆC SỬA PHONG-TỤC. Mấy năm về cuối đời vua Thánh-tổ trong nước lắm giặc-giã, phong-tục thành ra kiêu-bạc, dân-sự lắm người cờ-bạc rượu-chè và hay mê-hoặc những tà giáo. Nhà vua lấy sự ấy làm lo, bèn soạn ra 10 điều huấn dụ, ban ra mọi nơi, để dạy bảo ngu dân.

1. Đôn nhân-luân 惇 人 倫: trọng tam-cương ngũ-thường.

2. Chính tâm thuật 正 心 術: làm việc gì cũng cốt phải giữ bụng dạ cho chính-đính trong-sạch.

3. Vụ bản nghiệp 務 本 業: giữ bổn-phận chăm nghề-nghiệp của mình.

4. Thượng tiết-kiệm 尚 節 儉: chuộng đường tiết-kiệm.

5. Hậu phong-tục 厚 風 俗: giữ phong-tục cho thuần-hậu.

6. Huấn tử đệ 訓 子 弟: phải dạy-bảo con em.

7. Sùng chính học 崇 正 學: chuộng học đạo chính.

8. Giới dâm thắc 戒 淫 慝: răn giữ những điều gian-tà dâm-dục.

9. Thận pháp thủ 慎 法 守: cẩn-thận mà giữ pháp-luật.

10. Quảng thiện hạnh 廣 善 行: rộng sự làm lành.

Năm bính-thân (1836) là năm Minh-mệnh thứ 17, có quan giám-sát ngự-sử là Bùi mậu Tiên 裴 茂 先 dâng sớ tâu rằng: « Các làng ở ngoài Bắc-thành nhiều kẻ hào-cường trái phép, mà dân thì biếng-nhác chỉ cờ-bạc rượu-chè; việc tế-lễ quỉ-thần thì hay dùng cách xa-xỉ, việc táng-tế thì chuộng đường xa-hoa, thậm chí có kẻ bán sạch cửa-nhà cơ-nghiệp để đền nợ miệng, thực là trái với nghĩa tương bảo tương lân ».

Vua Thánh-tổ bèn xuống chiếu trách-cứ các quan địa-phương phải đem những điều huấn-dụ đã ban ra trước mà khuyên-bảo dân-sự, và phải chuyển sức cho tổng-lý: hễ thấy ai biếng-nhác rong chơi cờ-bạc rượu-chè, thì phải cấm chỉ đi. Những kẻ hào-cường trong làng mà ỷ thế hống-hách điêu-toa kiện-tụng, chống cưỡng với quan trên, dậm dọa kẻ bình-dân, thì phải theo phép mà trừng-trị. Còn những lệ thờ thần và lễ tang-tế thì Lễ-bộ đã định ra phép-tắc, hễ ai không tuân theo thì phải tội.

13. NHÀ DƯỠNG TẾ. Không những là vua Thánh-tổ chỉ lo việc dạy dân mà thôi, ngài lại thương đến những kẻ nghèo-khổ, vậy nên ngài truyền cho các quan ở các trấn ngoài Bắc-thành được quyền lấy tiền kho mà lập một sở dưỡng tế: hễ những kẻ quan-quả, cô-độc, và kẻ tàn-tật không có nơi nương-nhờ, phải đến ở đó, thì mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa bát quan đồng gạo.

14. VIỆC ĐINH-ĐIỀN VÀ THUẾ-MÁ. Thuế đinh và thuế điền thì đại khái cũng theo như đời vua Thế-tổ đã định. Chỉ có năm bính-thân (1836) là năm Minh-mệnh thứ 17, đất Nam-kỳ đạc điền xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu và định lại các thứ thuế điền-thổ ở miền ấy. Còn như số dân đinh và điền-thổ trong nước, thì cứ theo sổ bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892 mẫu ruộng và đất.

Những dân Tàu sang thành lập hương-ấp ở nước Nam ta gọi là Minh-hương 明 鄉, thì có lệnh mỗi người đồng niên phải nộp hai lạng bạc và được trừ giao-dịch. Những người lão hạng và tàn-tật thì phải chịu một nửa.

Còn những người nhà Thanh sang buôn-bán ở nước Nam, phàm người nào mà có vật-lực thì đồng niên phải đóng 6 quan năm tiền; ai không có vật-lực thì phải nộp một nửa, hạn cho 3 năm, thì chiếu lệ thu cả thuế.

Nhà vua lại đặt lệ đánh thuế muối. Cứ mỗi ruộng muối đồng niên phải nộp bằng muối từ 6 phương cho đến 10 phương.

Mỗi phương nộp bằng tiền thì phải từ 3 tiền cho đến 4 tiền 30 đồng.

Còn các thứ thuế mỏ, thuế sản-vật v.v. thì đại-khái cũng theo lệ đời vua Thế-tổ đã định, chứ không thay đổi mấy tí.

15. VIỆC VÕ-BỊ. Khi vua Thánh-tổ lên nối nghiệp làm vua, thì trong nước đã được yên-trị, nhưng ngài vẫn biết việc trị nước cần phải có võ-bị, cho nên thường thường ngài vẫn có dụ truyền bảo các quan phải luyện-tập binh-mã để phòng khi hữu sự.

Ở những nơi hiểm-yếu thì lập đồn-ải, ở các cửa bể và các đảo thì lập pháo đài. Và lại làm tàu đồng, tập thủy-quân để phòng giữ mặt bể.

Binh-chế thì có bộ-binh, thủy-binh, tượng-binh, kỵ-binh và pháo-thủ binh.

Bộ-binh thì có kinh-binh 京 兵 và cơ-binh 奇 兵. Kinh-binh chia ra làm doanh, vệ, đội, hoặc để đóng giữ ở Kinh-thành, hoặc sai đi đóng giữ các tỉnh. Mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 người, có suất-đội và đội-trưởng cai-quản.

Những binh-khí của mỗi vệ, thì có hai khẩu súng thần-công, 200 khẩu điểu-thương và 21 ngọn cờ.

Cơ-binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng chia ra làm cơ, làm đội. Cơ thì có quản-cơ, mà đội thì có suất-đội cai-quản.

Tượng-quân chia ra thành đội, mỗi đội là 40 con voi. Số voi ở Kinh-thành 150 con, ở Bắc-thành 110 con, ở Gia-định-thành 75 con, ở Quảng-nam 35 con, ở Bình-định 30 con, ở Nghệ-an 21 con, ở Quảng-bình, Quảng-nghĩa, Thanh-hóa mỗi nơi 15 con, Quảng-trị, Phú-yên, Bình-thuận, Ninh-bình mỗi nơi 7 con.

Thủy-quân có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có quan chưởng-vệ quản lĩnh, và có quan đô-thống coi cả 3 doanh.

Vua Thánh-tổ vẫn biết rằng nước ta ở dọc bờ bể, thủy-binh là việc rất yếu-trọng cho sự phòng-bị. Thường ngài bắt quan đem binh-thuyền ra để luyện-tập.

Đại-khái việc binh-cơ, ngài không bỏ trễ chút nào. Ngài lập toán giáo-dưỡng binh, để cho con các quan võ, từ suất-đội trở lên ai muốn tình nguyện vào học, thì cho lương-bổng, và cử quan đại-thần ra dạy võ-nghệ.

Còn như khi nào có quân-lính đi đâu, thì nhà vua đặt lệ sai mấy người y-sinh đi theo để điều-hộ.

Tuy nhà vua muốn lưu ý về việc binh-lính, nhưng người mình lúc bấy giờ ai cũng trọng văn khinh võ, bình nhật không có ai lo gì đến việc quân-lính khí-giới. Hễ có lâm sự thì mới rối lên. Dẫu rằng nhà vua nay có chỉ dụ ra tập binh, mai có chỉ dụ ra tập trận mặc lòng, các quan chỉ làm cho xong việc, rồi lại bỏ mặc bọn quản đội làm thế nào thì làm. Thành ra quân số ở trong sổ-sách thì nhiều, mà thế-lực thì vẫn không đủ: ấy là về đời vua Thánh-tổ mà còn thế, huống chi đến những đời sau, lại còn suy-nhược hơn nữa.

  1. Minh-mệnh chính-yếu, quyển Cần-chính.
  2. Đời vua Thế-tổ nước Nam ta có 27 trấn, đến đời vua Thánh-tổ đặt thêm 4 tỉnh nữa là Hưng-yên, Ninh-bình, Hà-tĩnh và An-giang, cả thảy thành ra 31 tỉnh.