Thơ Đỗ Phủ/12
NHỮNG THƠ LÀM TRONG ĐỜI ĐẠI-LỊCH, THI-SĨ Ở QUỲ-CHÂU
CCXXVII. — BẢO TÊN ĐẦY TỚ MÁN LÀ A-ĐOẠN
Cây rừng xam-xám bóng về chiều.
Ống nứa song song, suối chẩy theo!
Cứ đấy dân quê tranh gánh nước.
Tìm đâu thằng nhỏ phải qua đèo?
Bơ-phờ tóc bạc ba canh khát,
Đầm ướt mây xanh một thác treo.
Đầy tớ họ Đào kinh chuyện lạ![1]
Mày len chi giữa đám hùm-beo?
CCXXVIII. — SẤM.
Nắng to cháy cả núi rừng!
Cơn mưa kéo kín, lại chừng không mưa!
Miền Nam lam-chướng mịt-mờ!
Trời làm đại-hạn cầy bừa mất công!
Vang đèo tiếng trống thì thùng
Lập đàn đảo vũ cả vùng đua nhau!
Rồng thần xa vắng bấy lâu,
Tượng sành, bụt đất, khẩn-cầu không thiêng!
Thuế sưu thiếu-thốn lăn chiêng!
Hại chung cả xứ chẳng riêng một nhà!
Đau thương ai kẻ nghe ra?
Nhìn trời cụ-lão kêu-la nghẹn ngào!
Phơi gù, đánh cốt, sách nào?[2]
Giáo, gươm xin trước xếp vào một nơi...
Xử-phân mặc cả Con-Trời!
Của đừng vét hết, dân thời nên thương!
Xưa nay thủy, hạn sự thường,
Vua Nghiêu đã trải, vua Thang cũng từng!
Hai đằng còn lại một đằng,
Một rằng trời đốt, hai rằng giặc pha,
Vuốt hùm, răng sói tính ra,
Chẩy vàng, nổ đá chắc là còn hơn!
Đêm qua tiếng sấm động ran;
Muôn tên gió bắn từng cơn rào-rào...
Mây mù tan mất cớ sao?
Các thần, các thánh, trông nào thấy chi!
Ruột gan nung nấu nóng ghê!
Áo quần như dặt: đầm đìa bồ hôi!
Thật già mà dại là tôi!
Trồng vườn, trồng được thôi thôi mong gì!
CCXXIX. — BẠCH-ĐẾ.
Cửa thành Bạch-Đế lớp mây đùn;
Chân thành Bạch-Đế trận mưa tuôn...
Cây xanh, giây xám, trăng, trời tối!
Thác dốc, đèo cao, sấm, sét dồn!
Phóng ngựa sao bằng về ngựa khoẻ?
Nghìn nhà chỉ độ chục nhà còn!
Vét-vơ gái góa cơ-đồ hết!
Đâu đó đồng thu khóc nỉ-non!
CCXXX. — THÁC VÀNG.
Thác Vàng nẻo cách, vắng thuyền về...
Núi Đỏ đường qua ít khách đi...
Tin tức sứ Tần không thấy lại!
Được thua quân Thục có từng khi...
Thổi sông Gấm, gió thu man-mác!
Đẫm áo là ai, lệ biệt ly!
Nghe nói châu Tùng vây đã kín,
Giữ suông Kiếm-Các có ra gì!
CCXXXI. — CÁC TƯỚNG.
I
Núi Nam sừng-sững các lăng vua!
Vượt ải nghìn năm lại giặc Hồ!
Cá ngọc trước từng đem đất lấp,[3]
Chén vàng sao lại thấy đời mua?
Bóng cờ trời Bắc, sao che lấp!
Gót ngựa quân Tây, bụi bốc mù!
Kinh, Vị đủ người gìn giữ chửa?
Tướng-quân đừng nghĩ chuyện trò đùa!
II
Ba thành xây đắp ý ông Hàn[4]
Muốn chắn quân Hồ trước ải-quan.
Nào biết lại nhờ binh giống mọi[5]
Đem vào đánh hộ giặc thằng An[6]:
Cửa Đồng ngựa kéo đường chen chật!
Sông Tấn rồng bay vận chửa tàn.[7]
Các tướng lấy gì đền nợ nước?
Để mình vua phải mệt lo-toan!
III
Cung điện kinh-thành hóa đống tro!
Trăm hai lần ải chẳng ra trò!
Bể Đông chưa thấy ai triều-cống!
Cửa Kế tìm đâu dấu địa-đồ?
Mũ áo dẫu ban thừa kẻ mặc,
Binh lương vẫn hụt, thiếu người lo!
Ngoài biên mừng được. ông Vương-Tấn
Bó giáo cho quân học cấy mùa.
IV
Quay lại Phù-Tang, ngọn Cột-Đồng,
Mịt-mù yêu khí chửa tan xong!
Trả quan[8] đất Việt không tin tức!
Ngọc-sáng[8] miền Nam luống đợi trông!
Tốt số có khi hàm nhất-phẩm,
Hoạn-quan đều đội mũ nguyên-nhung!..
Bắc, Nam đất nước nhà vua cả,
Chỉ ở trăm quan chịu hết lòng!..
V
Sông Gấm xuân về, khách nở-nang!
Kẽm Vu thu đến, suối buồn thương...
Hồi nào còn nhớ ông Nghiêm Vũ
Đón sứ cùng ra gác Vọng Hương.
Ơn chúa, trước sau sắc ban mãi!
Lòng quân hớn-hở tiệc ăn thường...
Trong đời hiểm nhất miền Tây-Thục,
Bình-trị cần nhờ bậc giỏi-giang...
CCXXXII. — HỨNG THU
I
Xác xơ sương ngọc dũa ngàn phong!
Đỉnh Giáp, non Vu, vẻ lạnh-lùng...
Rợp đất gió mây tràn cửa ải!
Lộn trời sóng nước cộn lòng sông!
Con thuyền buộc cẳng nhà muôn dậm!
Hàng lệ đầm hoa cúc một vùng!
Kéo, thước nơi nơi lo áo rét,
Vang thành chiều rộn dịp chầy đông!
II
Ác lặn chân Quỳ xuống mảnh thành,
Vẫn theo sao Đẩu ngóng trời kinh!
Vượn nghe, lệ gạt thầm, ba tiếng!
Bè nổi đường theo lạc một mình!
Tường phấn vòm cao, kèn buốt ruột!
Lò hương rinh vẽ[9] mộng tàn canh!..
Hãy trông trăng núi qua ngàn lá,
Đã rọi hoa lau rõ bóng cành...
III
Thành núi nghìn nhà nắng sớm tươi.
Lầu sông buổi buổi chịu ngồi giai!
Sang thu đàn én bay, bay mãi!
Thả lưới, con thuyền lượn, lượn hoài!
Lưu Hướng chép kinh đành chuyện hão!
Khuông Hành dâng sớ cũng công tai!
Anh em bạn trẻ hèn đâu có!
Ngựa béo, xe bền, nghĩ đến ai!
IV
Đất kinh nghe nói tựa bàn cờ!
Nghĩ chuyện đời thêm dạ vẩn-vơ!
Nhà cửa công, hầu. đều chủ mới!
Áo xiêm văn, võ khác thời xưa.!
Non sông ải Bắc vang chiêng, trống!
Xe ngựa bình Tây chậm giấy tờ!
Nước cũ ngày thường lòng bận nghỉ.
Sông thu lạnh ngắt cá rồng thưa!
V
Núi Nam đối cửa điện Bồng-lai,
Hứng móc cây vàng đứng ngất trời![10]
Đền ngọc trông chừng chúa tiên xuống
Ải Hàm đầy rẫy bóng hồng soi...[11]
Mây lồng quạt trĩ phiên chầu họp.
Nắng rọi ngai rồng mặt thánh tươi!
Nào lúc thềm son hầu chực nữa?
Giật mình sông biếc hết năm rồi!
VI
Đầu sông khúc với thác Cồ-Đường,
Muôn dậm thu cùng một tấm thương!
Hoa-ngạc lầu cao hơi ngự thoáng!
Phù-Rung vườn nhỏ mối sầu mang!
Cột ngà, buồn gấm xua âu trắng!
Rèm ngọc, màn thêu đón hộc[12] vàng!
Nghảnh lại tiếc thay nơi múa hát!
Tần-trung xưa vẫn đất hưng-vương!
VII
Đào vực Côn Minh đã tốn công!
Bóng cờ vua Hán hiện trong lòng!
Lớp vây kình đá[13] hơi may động!
Khung cửi nàng Ngâu[13] bóng nguyệt lồng!
Gạo niễng sóng xô mây lắng thẫm.
Buồng sen sương lạnh phấn rơi hồng!
Thon von thuyền cá sông đầy đất!
Len lỏi đường chim ải mấy trùng!
VIII
Ngự-Túc dòng sông khuất khúc sang.
Hồ sâu, bóng núi lộn trong gương.
Thóc thơm hạt nhặt thừa chim vẹt!
Ngô biếc cành chen rũ phượng hoàng!
Vãn cảnh bạn tiên chèo lái rộn!
Chơi xuân người đẹp chuyện trò vang!
Bút hoa nào lúc vung mưa gió?
Đầu bạc buồn đem khóc nhớ thương!
CCXXXIII. — NHỚ XƯA
I
Xiêu dạt Tây-Nam thân chật đất!
Lung tung Đông Bắc bụi mù trời!
Lật lường giống Mán gian quen thói!
Lận đận hồn thơ nghĩ xót đời!
Xiêm áo năm khe mây, núi lộn!
Đền đài ba thác tháng ngày trôi!
Bình-sinh Dữu-Tín thua, buồn lắm!
Thơ phú về già mới nẩy tài!
II
Tống-Ngọc vì thu luống xót xa,
Phong-lưu kể cũng bực thầy ta!
Sinh sau ngán nỗi bao đời cách!
Người trước ngùi trông giọt lệ xa!
Non nước nhà hoang văn để đó!
Mây mưa đài cũ mộng ru mà?[14]
Tin gì chú lái vung tay chỉ:
Cung Sở không còn dấu cỏ hoa!
III
Non nước xô-bồ xuống cửa Kinh,
Này đây dấu cũ xóm nàng Minh[15]
Ải ngoài đi biệt con người ngọc!
Trời tối nằm trơ nấm mả xanh!
Đêm họa có về hồn dưới nguyệt!
Hoa nhìn không rõ mặt trong tranh!
Tỷ-tê nghe khúc tỳ-bà gẩy,
Muôn thuở còn dư dọng bất bình!.
IV
Vũ-trụ vang lừng tiếng Khổng Minh,
Thanh cao đền cũ vẫn còn tranh.
Trời mây bậc nhất tài khôn đọ!
Non nước chia ba thế đã thành!
Ăn đứt Tiêu, Tào mưu xếp đặt!
Ngang hàng Y-Lã bậc em, anh!
Lửa tàn lò Hán gây không lại,
Quyết chí lo toan, chết chửa đành!
CCXXXIV. — MƯA CHẲNG DỨT,
Mưa lớn qua rồi, giọt rớt giây!
Ngang trời lất-phất tựa lơ bay!
Thềm ngoài cỏ ngắn bùn không lấm
Vườn trước cành dài gió bớt lay.
Én núi phải chăng sinh trứng đá?[16]
Gái thần chớ để ướt xiêm mây![17]
Mắt trông chẳng đợi dòng sông lặng.
Ngược sóng con thuyền khéo vội thay!
CCXXXV. — NẰM GÁC BÊN SÔNG.
Bóng tối tràn dưới núi,
Lầu cao giáp cửa sông.
Trên đèo màn khói đọng!
Trong sóng mảnh trăng lồng!
Theo bạn cò nhàn lắm!
Tranh mồi sói ngậu không!
Xoay trời không đủ sức,
Lo giặc chỉ nằm mòng!
CCXXXVI. — GẮC TÂY.
Lười lĩnh giống dòng sông
Đêm ngày nhớ bể Đông.
Ngậm hương đành quý giá,[18]
Nhổ tóc nghĩ đau lòng.[19]
Liễu biếc buồn xơ-xác!
Lầu son ngại tựa trông!
Con thơ còn lóc nhóc,
Bệnh cũ chửa thong dong!
Phú quý nào bền vững,
Thần tiên nghĩ mịt mùng!
Hứng thơ trên đất hết,
Vào bể thử đi lùng!
CCXXXVII. — ĐÊM.
Trời cao, sương thấp, nước xanh trong,
Núi vắng, canh khuya, khách trạnh lòng...
Chầy nện lửng lơ vành nguyệt mới!
Buồm buông le-lói ngọn đèn chong!
Hững hờ, nhạn Bắc thư không tới!
Nằm ốm vườn Nam cúc nở đông!
Tựa gậy trông sao hiên trước lạnh.
Sông Ngân vắt-vẻo nẻo thành rồng!
CCXXXVIII. — KHÔNG NGỦ.
Đen rầm dòng thác tối!
Trống gác dứt canh đầu.
Mờ mịt trăng chìm khói.
Lập lòe sao xát lầu...
Tuổi già đành ít ngủ,
Sức yếu dễ cưu sầu!
Đồn, trại đầy hang, núi,
Nguồn Đào biết kiếm đâu?
CCXXXIX. — GÁC TRANH.
Quanh ngày cửa liếp chẳng gài.
Trông ra hết đất, bên ngoài gác tranh!
Sông đêm rồng, cá lượn quanh...
Rừng thu rung động trước mành trăng sau!
Sương sa đầm ướt lúc nào!
Vẩn-vơ mây mỏng bay cao lưng trời!
Buông thuyền nhìn vợ thở dài,
Nay trôi, mai nổi cho phai má hồng!
CCXL. — TRĂNG SÔNG.
Trăng bến trong hơn nước,
Lầu cao nghĩ chết lòng:
Bên trời phờ tóc bạc;
Hàng lệ đẫm khăn hồng!
Sương ngọc mờ muôn dậm
Sông Ngân ngậm nửa vòng...
Nhà ai thêu chữ gấm,
Cau mặt tắt đèn chong?[20].
CCXLI. — TRÊN SÔNG
Quanh ngày đau ốm trên sông!
Hắt-hiu Kinh-Sở một vùng trời thu!
Gió cao, lá rụng bay đua!
Đêm dài xắn vén xo-ro áo cừu!
Việc làm: dựa dẫn bên lầu!
Công danh: chốc chốc nhìn vào gương trong!
Báo đền ơn nước bao xong?
Tuổi già, đời loạn, tấc lòng dám quên!
GCXLII. — NỬA ĐÊM.
Nửa đêm sông, núi vắng...
Lầu chắm ngắm chòm sao!
Muôn dậm về không được,
Trăm năm thẹn biết bao!
Mây sầu mờ nước cũ,
Bụi trận vẫn thành cao!
Phụ nghĩa thằng con mán,[21]
Yên vui biết lúc nào?
CCXLIII. — SÁO THỔI.
Non thu sáo thổi gió, trăng trong!
Khéo lựa nhà ai tiếng mủi lòng!
Gió lọt cung, thương hòa xát nhịp!
Trăng soi ải, núi sáng bao vùng!
Ngựa Hồ về Bắc, đêm tan vỡ![22]
Khe Vũ sang Nam khúc não nùng![23]
Vườn cũ liễu giờ xơ-xác hết,
Trời buồn chưa dễ nẩy chồi đông![24]
CCXLIV. — MƯA.
Non xanh ủ-rũ buồn
Giọt trắng đếm sao xiết!
Ngoài bãi mưa thấp-thao!
Trên sông mây xám-xịt!
Bến gió dựng nhà sàn
Như tổ chim tri-trít!
Muôn dậm, khách lên đường
Đoái trông lòng vấn-vít!
Sông Ngô sóng lộn trời!
Buồm kéo ngoài xa-tít!
Rồng rắn rỡn chiều râm,
Trộm, giặc còn nhiều ít?
CCXLV. — SOI GƯƠNG, TRÌNH. BÁCH TRUNG THỪA.
Núi Nam gần nẻo mặt trời
Với trông sông Vị cách vời ải-quan!
Hang hùm mấy độ mật tan?
Cõi đời dê, chó, lệ tràn như mưa!
Làm quan nhưng thích ngủ trưa!
Học tiên nhưng bước rậm-rờ không nên!
Trong gương thơ-thẩn ngắm nhìn
Vẻ suy họa có người quen thương cùng!
CGXLVI. — ĐỜI TRAI TRẺ.
Mười bốn, mười lăm tuổi,
Ra chơi làng văn-chương.
Trong làng bọn Thôi, Ngụy[25]
Đọ ta cùng Ban, Dương[26]
Bẩy tuổi đã mau trí:
Ứng khẩu thơ phượng hoàng!
Chín tuổi viết chữ lớn:
Đầy giấy nét khuênh khoang!
Cứng lòng ghét gian-ác!
Ngậm chén nhìn nghênh-ngang!
Bạn chơi rạt đầu bạc:
Trai-trẻ ta xem thường!
Giống tục sao nhiều thế?
Uống say trông tám phương!
Đông xuống đài Cô-tô,
Vượt bể toan lên đường...
Đến nay còn để hận:
Không tới được Phù-Tang!
Hiu-quạnh mả vua Ngô!
Im chìm tiếng họ Vương![27]
Hồ Kiếm đá nghiêng vách!
Bãi Dài sen ngát hương!
Bóng đền in nước sâu,
Sừng sững ngoài cửa Xương:
Đến thăm vua Thái-Bá,
Tưởng vọng lệ đôi hàng...
Gối giáo nhớ Câu Tiễn,
Qua sông giận Tần-Hoàng.
Lòng cá con gươm giấu,
Lưng ai quả ấn mang...[28]
Ngà thua da gái Việt!
Hè mát nước hồ Gương...
Riễm-Khê cảnh đẹp lạ,
Đi khỏi vẫn mơ-màng.
Buồm về chạm Thiên-Mụ,
Tuổi trẻ vào thi Hương.
Khuất, Giã thấy thưa luỹ!
Tào, Lưu coi thâp tường![29]
Lỡ trượt khoa Khảo-Công,
Một mình ra khỏi trường
Dong chơi lối Tề, Triệu,
Xe ngựa cũng ra tuồng!
Thanh-Khâu đông săn chơi!
Tùng đài xuân hát vang!
Rừng chàm xuýt ưng, chó:
Núi Tuyết theo chim muông:
Vung cánh rơi mòng, két,
Bắn bay cương lỏng buông.
Ông Tô[30] vỗ yên reo!
Coi ta như Cát-Cương![31]
Sung sướng tám, chín năm,
Tây lại về Hàm-Dương.
Quen thân tất văn hay!
Đón rước quên dòng sang!
Ra vào nhà các chúa,
Dâng phú đền Minh-Quang:
Đức vua bỏ ăn vời
Các quan họp vội vàng!
Thoát thân chả thiết gì!
Say tuýt mặc trời thương!
Cừu đen dần rách nát,
Tóc đốm vẫn lang thang!
Quê cũ các ông già
Mồ mả đầy đồng hoang!
Đời người được bao lâu?
Thân ta đã lão làng!
Cửa son đẫm máu đỏ,
Sang lắm, lắm tai ương!
Ngựa đua với gà chọi
Tốn hại bao tiền lương!
Phiền phí đại loại thế,
Việc nước ôi chán chường!
Gió bụi nổi đất Bắc,
Xe loan miền Thục sang.
Hai cung đều bối rối,
Trông nhau muôn dậm trường!
Lấp núi hơi khói đen!
Rợp bể bóng cờ vàng!
Vua mới lên ngôi báu,
Việc binh thân chủ-trương.
Hùm, beo nuốt đàn sói!
Bên núi tán rồng dương
Móng, vuốt lỡ một trận,
Quân Hồ lại quật cường!
Dân chúng chết rải rác,
Quan-quân chạy cuống cuồng:
Bị-vị chức Thập Di,
Ngày đêm lo nghĩ suông!
Chín miếu đống tro than!
Muôn dân buổi điêu tàn!
Trước thềm nép can gián,
Tay bám bên long sàng.
Vua nhục dám tiếc chết,
Sấm sét xin cam đang!
Lượng Thánh còn bao dong:
Truất ngôi quở phạt xoàng!
Triều-Đình trông với lại,
Buốt mũi, nát can-tràng!
Thân già lạc đất lạ,
Bàn bạc hết rông quàng!
Lông cánh chịu xếp xó;
Uất-ức khổ khôn lường!
Hết thơm bông huệ yếu...
Gió chướng thét bến hang!
Giang hồ Ngư-phủ mến,
Mũ áo Giới Thôi nhường[32]
Công danh như hoa tươi,
Đậu sao trời tuyết sương?
Ta xem Chi-Di-Tử,[33]
Tài giỏi ai bằng chàng?
Anh hùng đời loạn đâu?
Đáng cho dân cậy nương
CCXLVII. — NGAU ĐỀ
Văn chương công việc nghìn đời!
Dở hay mình biết riêng nơi tấc lòng!
Tháng ngày rèn-tập bao công,
Tiếng-tăm phải chuyện ăn không của trời!
Phong, Tao người đã cách vời,
Từ triều Hán xuống đua tài về thơ.
Người xưa tài học không bờ,
Văn hoa là lớp sóng thừa vẽ chơi!
Người sau lối cũ quen rồi
Lại thêm lối mới theo thời đổi thay!
Phép nhà đã sẵn xưa nay,[34]
Mệt lòng, nhọc trí từ ngày trẻ-trung,
Theo đòi Ngụy, Tấn lạ-lùng.
Ngựa nòi kỳ, ký, con dòng kỳ-lân:
Bánh xe đẽo đã bao lần![35]
Nếp ngà gây mãi dựng dần chưa nên!
Luận hay, bia đẹp ai truyền?
Yếu-đau hoạ giải lòng phiền một, hai!
Cành con bay đậu hôm mai.
Thẹn mình cứu nước, giúp đời không công!
Thuồng luồng rình chực bến sông...
Chen đua cát, bụi, giống ong hại người...
Quấy dân, giặc nổi như rươi!
Rối beng Hán, Sở, xa vời Đường, Ngu!
Rồng thiêng nằm vũng ao tù!
Gươm thiêng vùi lấp mơ hồ ánh sao![36]
Hai đô rinh tướng đóng cao!
Xa gần muôn nước cờ đào bay tung
Bể Nam mất giấu cột đồng!
Nhục-Chi theo ngọn gió đông tràn vào!
Hãi hùng gấu thét, beo gào
Bóng nhàu, tăm cá trông nào thấy chi!
Hứng thơ tìm giữa đồng quê,
Học nghề làm ruộng, tập nghề trồng nương!
Non xưa gác Trắng mơ màng...
Sông thu trạnh nhờ bãi Vàng mông mênh!
Dám đâu gọt dũa câu xinh,
Gỡ sầu mượn gửi chút tình biệt ly!
CCXLVIII. — HAI MẠN NÚI CỒ-ĐƯỜNG
Tiếng đồn Ba Thác đâu đây?
Chơi vơi hai mạn cửa này hiểm sao!
Đá trên xanh ngất trời cao
Bóng in đáy nước chạm vào chân mây!
Hang rồng sâu thẳm ai hay!
Đười-ươi, khỉ độc râu, mày lạ ghê!
Tiết Đông ngày ngắn chỉn e
Hy-Hòa vấp đổ cả xe mặt trời!
CCIL. — CỬA GIÁP,
Thời bình ải mất hiểm!
Đời loạn giáo như rừng!
Cắt giữ làm chi mệt?
Anh hùng sống mãi chăng?
Lau tàn, người đứng muộn!
Lá kín, vượn ngồi rưng!
Bạn-hữu, làm phiền mãi:
Tiền cho đã mấy từng?
CCL. — AO TRỜI.[37]
Nước ao trời, ngựa nào uống nổi?
Vách đá, chim len-lỏi được chăng?
Mây xanh, đá trắng mấy từng,
Sóng cồn trăm mẫu ngất lưng chừng trời!
Trời lạnh ngắt, ngâm dài đáy nước!
Nước bốc lên man-mác khí thiêng!
Non Vu trước mặt đứng nghiêng...
Hẳn tay vua Vũ bầy riêng cảnh này!
Hay sẵn có từ ngày Bàn-Cổ?
Có cá, rồng, lại có súng, sen!
Cơn mây sấm kéo tối đen!
Canh tư thấy mặt trời lên đỏ hồng!
Gió vua Sở đùng đùng thổi tới!
Mưa gái Thần phơi phới sa mau!
Đá kê khung cửi nàng Ngâu?
Cung Long-Vương phải ở đâu chốn này?
Chín thu muộn, tủi bầy hồng-nhạn!
Muôn dậm xa, kết bạn ngư-tiều!
Không người này cảnh cheo-leo!
Đốt tranh ta muốn ở liều quách đây!
CCLI. — ĐÊM TRÊN GÁC.
Ngày tàn gần Tết mau trưa, tối!
Đêm lanh phương trời sạch tuyết, sương!
Ba Thác ánh sao rung nhấp nháy!
Năm canh tiếng ốc thổi buồn thương!
Quăng chài mấy kẻ nghêu-ngao sớm!
Chết trận đầy đồng khóc-lóc vang!
Việc nước, tình nhà đầu dục bạc!
Công cao, danh lớn, đất trơ vàng!
CCLII. — Ở MÃI GÁC TÂY
Từng gác không hề giữ,
Ngươi sao cứ quyện quanh?
Mây sông tung lụa trắng!
Vcáh đá rạch trời xanh!
Bể cả, nắng mừng mặt!
Sông Ngân sao trẩm mình!
Ngày thường mê cảnh đẹp,
Giờ mới bắt đầu kinh!
CCLIII. — BÀI CA TRÓI GÀ
· | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · |
· | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · | · |
CCLIV. — EM THÔI BÌNH-SỰ HỨA LẠI ĐÓN, KHÔNG THẤY ĐẾN. CHẮC LO LÃO NGẠI MƯA KHÔNG ĐI, TẤT SAI HẸN ĐẸP. CHẠY BÚT VIẾT ĐÙA.
Gác sông đã hứa đón mời ta.
Trưa tới ngồi chờ tự sớm ra!
Mây nổi xuân xanh lòng dám phụ!
Mưa phăn thành Bạch tội chi mà?
Say ngồi chắc nhẹ trên lưng ngựa...
Mình ướt càng tình giữa lớp hoa!
Bởi thiếu yên vàng đành bó cẳng!
Phải rằng đầu bạc ngại xông pha!
CCLV. — SẦU (Đùa làm theo thể Ngõ
Cỏ sông ngày ngày khéo gọi sầu!
Non Vu lạnh ngắt muốn trêu nhau!
Cây một, hoa nở ra rực-rỡ!
Nước xoáy cò lội thấy đục ngầu!
Mười năm, muôn nước loạn dài mãi!
Đất lạ, thân già ốm bấy lâu!
Sông Vị, núi Tần về chẳng được?
Người thì mệt lử, hùm nhâu nhâu
CCLVI. — MỘNG NGÀY,
Một giấc ly-bì giữa tháng hai!
Phải rằng ngày ngắn ngủ bù chơi!
Chiều xuân ấm-áp hoa say mắt!
Bóng xế mông mênh mộng ghẹo người!
Nước cũ, vua kề lưng gấu, sói!
Quê xưa nhà giữa đám chông gai!
Bao giờ giặc hết, dân yên nghiệp,
Quan chẳng ăn tiền khắp dưới trời?
CCLVII. — CUỐI XUÂN ĐỀ NHÀ TRANH MỚI THUÊ Ở NHƯƠNG-TÂY
Rợp đến, mây mầu trắng.
Sớm ra cây gấm xanh.
Công danh mai tóc rối!
Trời, Đất một lều tranh!
Say múa, cùng ai tỉnh?
Buồn ca chợt tiếc mình!
Mưa phùn vác cuốc đứng.
Tiếng vọng vượn bên ghềnh!
CCLVIII. — CUỐI XUÂN
Ba Giáp nằm dài ốm, ốm xo!
Long-lanh ánh nước mặt sông, hồ!
Bốn mùa không dứt mưa trời Sở,
Nghìn dậm đưa tràn gió đỉnh Vu!
Trên cát liễu xanh ngoài gác cỏ;
Bên thành sen đỏ giữa ao tù!
Cắp con trước bãi bay rồi đậu.
Thơ-thẩn chiều xuân mấy chị cò!
CCLIX. — TỨC SỰ.
Tháng ba xuân muộn kẽm Vu dài...
Nắng rọi mây bay sáng, sáng ngời!
Mưa, sấm chợt đưa tràn các núi!
Hương, hoa thoáng ngát đủ trăm mùi!
Công bùn, chiếc én không nề ướt!
Rỡn nước, đôi oanh mãi lượn chơi!
Chỉ thiếu Tiêu-Tương bầy trước gác.
Cuốn mành đã sẵn bức tranh trời!
CCLX. — NẮNG QUÁI.
Bên cung vua Sở bóng chiều mời!
Ngoài lớp thành Ba sạch vết mưa.
Sông, nắng quái soi, chao vách đá!
Cây, mây về lấp, mất làng xưa
Ai xa buồn, cửa thường gài sớm.
Phổi yếu, nằm ho phải ngủ trưa!
Ơ mãi được đâu hùm, sói loạn!
Trời Nam hồn lạc gọi về chưa?
CCLXI. — MƯA.
Mưa mừng trời mới ngớt,
Sấm sợ đất còn vang!
Rầm-rầm qua kẽm tới;
Kít-mít vượt sông sang...
Trâu, ngựa không nhìn rõ!
Thuồng luồng vẫn húc quàng!
Khí âm đời loạn thịnh,
Chưa chắc bởi Đài Dương![38]
CCLXII. — TRĂNG.
Sông Ngân mới mặt đêm nay!
Non Vu mưa mãi, chẳng ngày nào không!
Ngàn xanh ví vắng trăng trong,
Con người đầu bạc buồn lòng biết bao!
Nửa vành bóng thỏ treo cao,
Ma rừng, quỷ núi nấp vào đám cây!
Chuôi sao Bắc-đẩu đương xoay,
Xin soi vườn cũ miền Tây châu Tần!
CCLXIII. NẮNG QUÁI.
Nắng quái soi Vu-Giáp,
Trời xa nửa có, không...
Sáng choang mây đỉnh núi!
Đen rợp bến ngoài sông!
Bãi sậy: sóng thu rải...
Rừng thông: tranh vẽ lồng...
Trâu, dê quen đứa ở,
Nghe gọi đã về đông!
CCLXIV. — LÊN CHÂN NÚI VƯỜN SAU.
Xưa kia ta tới Sơn Đông,
Đùa lên đỉnh Thái, xa trông phương trời.
Cuối Thu, Nhật-Quán[39] đứng chơi,
Áo bay bể biếc, tóc phơi nắng hồng!
Bốn mùa, tiết sắp sang đông,
Từng phương núi đứng, trăm sông nước về!
Đồng bằng riêng vẻ ủ-ê:
Nương dâu, ruộng lúa bốn bề bỏ hoang!
Phải đâu tàn gió, táp sương!
Phu xua, lính bắt, đau thuơng bằng mười!
Nước giầu, các tướng có tài,
Triều-đình quyết cướp đất ngoài biên cương!
Việc đời thay đổi không thường!
Ông già, bà cả muôn hàng lệ sa;
Quy-mông[40] cách mấy chừng xa?
Trông vời nào thấy quê nhà ở đâu!
Chiến tranh sốt ruột bấy lâu,
Suyễn lên từng dạo, sườn đau đã chồn!
Bên ngàn chống lưỡi gươm cùn!
Buồn tình lại đứng đỉnh cồn trông ra!
Úa vàng, ánh nắng trời xa.
Rừng thiêng vượn ngã, chim sa, nặng-nề...
Gió thu, sông chẩy xiết ghê!
Không cầu, không lái, muốn về chỉn khôn!
Thương thay lạ nước, lạ non,
Bỏ nhà ai đó, chết chôn bên đường!
Hồn tàn chẳng tới quê hương!
Ông, cha còn được nắm xương vùi gần;...
CCLXV. — RỪNG CAM,
Bỏ thuyền qua cồn Tây,
Vào rừng bỏ áo ngồi...
Cỏ non vừa ý ngựa;
Chim đẹp quen mặt người...
Sương đêm giờ đã ráo:
Non xa, nắng sớm soi.
Tuổi già ăn, ngủ ít.
Lều cỏ thích thảnh thơi.
Thù tiếp ngại lễ phép,
Quê-kịch quen đi rồi!
Dưa, muối đã quen dạ,
Ngựa, xe hơn gì ai!
Ồn, tĩnh khác hẳn nhau,
Ham-chuộng tùy tính trời.
Đừng tưởng lầu son sang,
Mà bảo nhà tranh tồi!
Sớm mai qua làng, xóm!
Bạn già trò truyện chơi.
Đời loạn thuế khóa nặng,
Cơm lất mời ta xơi.
Giắt nha xem ruộng đậu:
Hoa thu chúm-chím cười!
Có quả không được ăn!
Bán tiền nộp nay mai!
Dùng cả vào việc quân:
Lệnh quan khó van nài!
Chủ nhà quỳ gối hỏi:
« Loạn-lạc bao giờ ngơi? »
Bấm tay tính tướng giặc,
Lòng riêng, riêng ngậm-ngùi;
« Cố chết giúp nhà nước!
« Trốn lủi đừng, anh ơi! »
CCLXVI. — MƯA,
Núi mưa mặt đất không bùn...
Mây hồng tan hóa thành luôn sương mù!
Hạc ngàn mạn tạnh bay đua.
Gió ngoài bãi-cát thổi lùa rặng cây.
Nhấp-nhô vẻ núi đổi thay...
Tỏ mờ cảnh bến đấy đây khó nhìn.
Ốm nằm trong dạ buồn phiền:
Mắt quanh riềm gối, bụi lên đế giầy!
Đường về quê cũ xa thay!
Loạn ly, rắn-rết quấy rầy mãi nhau!
Tháng ngày cơ-cực bấy lâu.
Vợ con đói rét, bạn bầu xa khơi!
Quan quèn cũng phải tới lui!
Bao người lạ trước hóa người quen nay!
Nén lòng nhũn-nhặn cho hay...
Long đong, lọm-cọm khổ này kêu ai?
Trăm khoanh đen bạc thói đời!
Không thù-ứng, phật ý người biết sao!
Suối rừng giữ được giá cao,
Ông Bàng, ông Thượng có đâu như mình!
Đợi ta phong cảnh hữu tình,
Tiêu-Tương trời lạnh, Động-Đình hồ thu!
Bao giờ chống gậy xuống đò?
Răng long, đầu bạc hẹn hò trăm năm!
CCLXVII. — NGHE NÀNG DƯƠNG HÁT.
Một mình đứng, hàm răng sẽ hé,
Người đẹp ca đến thế là hay!
Tiếng nghe xuống tự từng mây!
Đầy thềm ai cũng chau mày kém vui!
Thành mặt nước, bồi-hồi trăng mọc!
Huống nữa ca giữa lúc đêm thanh!..
Già nua mình tủi phận mình!
Trẻ trung ai đó lệ tình như mưa!
Buông chén ngọc, nhìn lơ biếng nhắp...
Bỏ ống vàng, thổi vấp ngang cung...
Người nghe nào phải ngại-ngùng,
Dại, khôn ai cũng chết lòng như ai!
Bọn hào-kiệt trên đời há dễ
Chỉ một người tri-kỷ mà thôi!
Tần-Thanh nghe nói đương thời,
Gầm rời đều phải lắng tai Chung-Kỳ!
CCLXVIII. — GIÓ THU.
Ngoài mặt sông Đông nhạt nắng Tây.
Áo bào lất-phất gió Thu bay.
Lối xưa đá mốc thưa người bước.
Thành nhỏ trời thanh rộn dịp chầy!
Trăng sáng vì ai mà đẹp thế?
Buồm đi đêm khác có về đây?
Bạc đầu sẽ tựa cây sân vắng,
Vườn cũ nhà, ao trước với rầy..?
CCLXIX. — THẤY ĐOM ĐÓM.
Ngàn Giáp đêm thu đóm lập-lòe.
Lọt mình vào áo khách ngồi khuya.
Giật mình đàn, sách trơ trong án...
Rối mắt chòm sao rọi trước hè...
Thành giếng lượn quanh thêm lấm tấm!
Nhị hoa lần đến thấy hoe-hoe!
Nhìn mày, đầu bạc buồn sông biếc!
Giờ độ sang năm về chửa về?
CCLXX. — BÊN SUỐI.
Quê người lưu-lạc bước
Bên suối bốn, năm nhà.
Rêu cũ lan tường đất,
Tre thu nấp bóng hoa.
Tục Mường giếng không có!
Gạo núi, sỏi thường pha...
Thuyền sứ sông Tây đến,
Kinh-kỳ lại hỏi qua.
CCLXXI. — TÌM NGƯỚI GỬI CHO PHONG, EM THỨ NĂM, MỘT MÌNH Ở GIANG-TẢ, ĐÃ BA, BỐN NĂM VẮNG KHÔNG TIN TỨC.
Hàng. Việt còn chưa rõ,
Nghe em trọ ở chùa.
Sông ngòi ngăn mãi khách
Gió bụi mất bao thu!
Rừng vượn hồn toan lạc!
Lầu trai bóng khó dò...
Ngàn mây lùng sẽ khắp,
Hãy đợi nước xuân to.
CCLXXII. — GƯI TÔ-HỄ.
Anh chẳng thấy bên lối vũng ao tù...
Anh chẳng thấy gần đó cây đồng khô...
Đồng khô đẽo được cây đàn tốt!
Ao tù náu được con rồng to!
Sập ván mới định đời trượng-phu!
Anh nay may vẫn chửa già-nua!
Cớ chi trong núi sống lò-cò?
Non thẳm, rừng sâu ở sao được;
Sét vang, gió giật, quỷ reo hò!..
CCLXXIII. — GƯI ANH LANG-TRUNG TIẾT-CỨ.
Người đời không dại, khôn,
Lẩn-vẩn như bụi trần!
Trừ phi hạng thần-tiên,
Ai khỏi nguy đến thân?
Cùng bác đều bạc đầu.
Chật-vật bao gian-chuân,
Tuy làm chức Lang-Trung,
Không bằng người thôn dân.
Nhớ trước người thôn dân,
Sung sướng bao nhiêu phần!
Vui vẻ thú điền-viên,
Công, hầu dễ theo chân!
Trời chưa chán loạn-lạc,
Chúng mình thường thiếu an!
Châu Kinh bác lưu-lạc,
Bến sông tôi lữa lần!
Trong Thục ốm một trận,
Sốt rét Đông qua Xuân!
Xuân lại thêm ho-hen,
Nào phải không nguyên-nhân:
Lúc trẻ cùng Tô, Trịnh,
Chén say tình quen thân...
Hai bạn đã ra đất!
Nghiện rượu vẫn lần-khân!
Tôi giờ mặc sống, chết!
Lận đận dám ăn-năn.
Nghe bác hăng-hái lắm...
Đời quý bác vô ngần!
Lên ngựa ai đỡ bác,
Bác gắt bảo: « Không cần! »
Thơ viết giữa tiệc đông!
Tiếng nổi khắp xa, gần...
Mới biết bậc trùm đời,
Càng già càng tinh-thần!
Động-Đình, hồ Cỏ-Xanh,
Bể cả kề đông-lân...
Núi Quân nghỉ mát tốt.
Lại tiện hái rau tần!
Bác phải không sẵn thuyền
Đi lại thăm cố-nhân?
Tô nhớ công vua Vũ...
Cồ-Đường bao cách-ngăn!
Nghe chuyện thác Tùng-Môn,
Sặc thuốc đầm áo khăn!
Thu sang sẽ sắm thuyền,
Dòng xanh dò dẫm dần!
Ao Phượng sáng long-lanh,
Họp đông bọn làng văn.
Tôi ốm đành nằm-xó!
Bác khỏe chớ lần-chần!
Dưới có các minh-quan:
Trên có bậc minh-quân...
CCLXXIV. — GỬI QUAN GIÁN-NGHỊ HÀN-CHÚ
Ta buồn nhớ cảnh Nhạc-Dương,
Ôm nằm, dẫu muốn bay sang khó lòng!
Sông Thu người đẹp cách trùng,
Động-đình khỏa gót, trông vùng tám phương!
Ánh trăng, ánh nắng úa vàng...
Chim hồng thăm-thẳm tìm đường bay xa...
Giọt sương tầm tã mưa sa.
Lá phong xanh đã đổi ra mầu hồng.
Xênh xang gác phượng, cưỡi rồng,
Các thần Kinh Ngọc họp cung nhà trời.
Dòng Tượng lộn bóng sáng-ngời,
Cờ hoa phất-phới giữa vời khói mây!
Chén quỳnh các Thánh mải say,
Người tiên ngày trước, ngày rầy vắng không!
Nghe đồn là chuyện Xích-Tùng;
Nhưng e là chuyện Tử-Phòng họ Trương...
Theo vua kê vững ngai vàng.
Ngai còn, vua mất, dạ càng xót-xa!
Nên, thua, vận nước thôi mà!
Béo, tanh lợm dọng! hương, hoa chay lòng!
Cõi tiên ngày tháng thong-dong.
Có tài mà bỏ không dùng biết sao?
Sông thu, người đẹp nơi nào?
Mở thềm ngọc để đón vào được chăng?
CCLXXV. — ĐỒNG THU.
I
Sông lạnh rung trời biếc...
Đồng Thu ngày xác-xơ!
Thuyền ràng bên giếng Mán.
Nhà dựng trước làng xưa,
Táo chín cho người đập.
Quỳ tàn gọi trẻ bừa.
Thân già an chả mấy,
Bớt miệng cá khe nhờ!
II
Lễ-nhạc tài đành kém!
Lâm tuyền thú thay dài!
Lắc đầu, mũ để lệch!
Sởi nắng, sách đem phơi!
Hạt trắc nhặt rụng gió.
Buồng ong cắt lạnh trời.
Lơ-thơ xanh, đỏ nhỏ,
Dừng guốc hứng thơm rơi.!
III
Cát non bờ dễ lở
Dậu yếu, cổng như không.
Nắng xế cá ăn mạnh,
Khách về sẻ họp đông.
Vi-vút gió ngàn thổi,
Long lanh ánh nước lồng.
Bên trời dần xẩm tối.
Tựa gậy đứng xa trông...
CCLXXVI. — GIẢI BUỒN.
I
Khách buôn từ-dã xuống Dương-Châu,
Trạm cũ Tây-Lang nhớ mái lầu...
Nhắn hỏi Hoài-Nam gạo đắt, rẻ?
Sang Đông lão muốn ở chơi lâu!
II
Bên nội, bờ sông, rặt vải tươi!
Thềm son, hồ ngọc ngóng trông hoài!
Má-hồng làm khổ bao người, ngựa?
Khe núi, bên rừng chết mặc ai![41]
CGLXXVII. — BUỒN.
I
Thuyền câu chài cuốn hết!
Cánh ác tối thưa không!
Mây mỏng chưa thành áo...
Trăng non mới uốn vòng...
II
Giặc mọi to đâu có!
Can, qua rộn bấy lâu!
Thôn quê nghe lũ trẻ
Náo-nức chuyện phong hầu!
III
Vẫn giận Đào Bành-Trạch,
Không tiền ngắm cúc suông!
Trùng-Dương nay đã đến,
Chè chén phải ra tuồng!
CCLXXVIII. — CHỌI GÀ,
Gấm phát cho gà chọi!
Sàn kê đợi ngựa thi!
Lầu vang tiếng đàn sáo!
Mành thoáng bóng cung phi!
Nhạc Nữ lâu nay vắng.
Xe tiên chốc đã lìa!
Trời Thu cây cỏ áy!
Vắng vẻ lối non Ly![42]
CCLXXIX. — NHẠN LẺ.
Nhạn lẻ không ăn uống,
Bay kêu tiếng nhớ bầy!
Nào người thương chiếc bóng
Lạc bạn cách ngàn mây?
Phảng phất như còn thấy...
Đau thương biết có hay?
Ác đồng vô tích sự:
Réo, gọi rộn quanh ngày!
CCLXXX. — HOÃNG.
Suối trong xa-cách hẳn!
Mâm ngọc vẽ-vời chi!
Mổ, sả, thân cam chịu!
Thần-tiên bạn dám bì!
Thiệt mình đời loạn-lạc!
Mắc vạ tiếng sầu-bi!
Áo-xiêm mà giặc cướp,
Cửa miệng sướng thôi thì...
CCLXXXI. — SỚM TRÔNG.
Trống canh tan Bạch-đế:
Ánh sớm rọi Dương đài.
Đỉnh chót, nắng lên lạnh!
Ngàn chồng mây đậu giai!
Đất quanh, cánh buồm khuất!
Trời vắng lá cây rơi!
Làm bạn cùng hươu-hoãng.
Tung tăng trước cửa sài!
CCLXXXII. — NGÀY CHIỀU
Trâu, dê về đã sớm,
Cổng, ngõ thẩy then cài.
Non nước lạ cùng khách,
Gió trăng xinh với ai?
Đá khe ngầm suối chẩy.
Cỏ nội đượm sương rơi!
Đèn sáng đầu phơ bạc,
Cần chi hoa nở sai!
CCLXXXIII. — ĐÊM
Bờ cao oai gió động.
Buồng lạnh bóng đèn mờ.
Trong tối, chim sông liệng!
Ngoài sương vượn núi mơ.
Hát ngao than áo ngắn!
Ngồi ngắm tiếc gươm thừa!
Khói bụi đầy phường phố,
Già đời lỗi chí xưa!
CCLXXXIV. — NGÀY CHÍN.
I
Một mình ngày chín nghiêng bầu rót!
Mấy đợt đài sông gượng ốm lên!
Biết rượu trúc mình không số uống,
Thôi hoa cúc nở để ai nhìn!
Nước xưa, sương xuống sa mòng trắng!
Đất lạ chiều hôm khóc vượn đen!
Em gái, em trai người mỗi ngả?
Lo già, lo loạn dạ trăm phiền!
II
Gió gấp, trời cao, tiếng vượn buồn!
Bến trong, cát trắng, cánh chim chồn!
Đìu-hiu lá rụng bay, bay khắp!
Cuồn cuôn sông dài chẩy, chẩy luôn!
Đài vắng trăm năm thân ốm rạc!
Quê người mấy độ lệ thu tuôn!
Nỗi thương vấn vít phờ đầu bạc!
Rượu đục lư đừ gác chén son!
CCLXXXV. — ĐƯA NGÔ-LANG
Mặc ai đập táo trước sân nhà,
Không gạo, không con, một mụ già!
Ví chẳng khốn cùng đâu đến thế!
Chỉ vì sợ hãi phải nhờ ta!
Còn e khách lạ, ừ đần thật!
Dù cắm rào thưa cũng phải mà!
Nghèo đến xương còn lo thuế khóa!
Lệ đầm khăn những tủi can qua!...
CCLXXXVI. — ĐIẾC.
Việc đời càng biết càng thương!
Suối rừng bao kẻ tìm phương trốn đời!
Bao giờ mắt mới được đui?
Tai thì tháng trước điếc rồi, sướng không!
Sẻ kêu, chiều chẳng bận lòng!
Trời Thu, vượn hót lệ hồng chẳng sa!
Gió gì? gọi trẻ hỏi qua...
Giật mình vàng rụng trông ra cây rừng,
CCLXXXVII. — TRĂNG.
Đêm lụn, sông soi gác.
Canh tư núi nhả trăng!
Thỏ ngờ tóc bạc hẳn!
Thiềm mến áo cừu chăng?
Mành gió neo cong vắt!
Hộp trần gương sáng trưng!
Chị Hằng thương phận góa
Thu lạnh chịu nằm rưng!
CCLXXXVIII. — ĐÊM TRĂNG ĐÔNG-ĐỒN
Phòng biên đồn thóc ngày xưa,
Phận bèo già, ốm, bây giờ tới đây!
Quê người xuân học cấy cầy;
Nhà tranh lủi thủi tháng ngày vào ra!
Bò-Vàng, thác réo nước qua.
Gái-Xanh,[43] sương rụng la-đà ngàn phong!
Trăng treo xóm khách buồn trông.
Bùn in dấu hổ tranh hùng đánh nhau!
Bóng thưa lọc dưới cây cao.
Hơi rừng, mây nhẹ tựa vào mỏng không!
Đàn chim vỡ tổ hãi-hùng!
Lần cành, vượn vẫn nằm mòng phải nao?
Vầng Đông rộng sáng lúc nào?
Gió lên, Bắc đẩu ánh sao ngập chìm!
Lạnh trời không ngủ suốt đêm,
Hồn quê hết nẻo đi tìm chiêm bao!
CCLXXXIX. — XÓM BẮC ĐÔNG ĐỒN.
Loạn-ly đời khổ đã nhiều!
Thuế sưu bòn-đãi dân nghèo, nghèo thêm!
Làng không chỉ có bóng chim.
Ánh tà vơ-vẩn chẳng tìm thấy ai!
Lần khe, mặt nước gió phơi!
Nhìn thông, mình ướt sương rơi đầm-đìa!
Non xanh, đầu bạc trông về.
Bụi vàng đất trận bốn bề tung bay!
CCXC. — NGÀY BA MƯƠI THÁNG CHÍN NĂM ĐẠI-LỊCH THỨ HAI
Thu buồn chiều tạm ngớt,
Quê cũ mộng thường xa!
Khí độc châu Quỳ nặng!
Sương hôm cung Sở nhòa!
Cỏ xanh ngang sắc núi.
Lá đỏ cướp mầu hoa!
Vườn xưa, nhìn khác hẳn:
Tàn rụng chỉ qua loa!
CCXCI. — SỚM.
Cửa liếp lạnh chưa mở.
Buồm sông sớm mới treo.
Đồng không âu trắng lội.
Rừng vắng lá vàng deo.
Ướt, ráo mây chia nửa.
Bồ hôi tảng rấp đều!
Non Vu, ồ lạ nhỉ!
Đêm thấy sấm Đông reo!
CCXCII. — BUỒN,
Ba Thục mây đen kịt!
Trăm mường khí độc kinh!
Cuốn mành toàn nước trắng,
Tựa án cũng non xanh!
Đi mãi thân âu nhẹ!
Nhìn đâu bóng vượn nhanh?
Đường cùng tiền ghét mặt!
Gương sáng bóng trêu hình...
CCXCIII. — ĐÙA LÀM THỂ KHÔI HÀI, CHO ĐỠ BUỒN.
Thành Bạch Nam lần tới.
Ngàn Xanh Tây cách vời.
Quà đưa món « tám góc »!
Đường dợn chú « Ba mươi »!
Mớ lửa cầy nương núi!
Tàn hương chữa bệnh người!
Tìm đâu lẽ phải, trái?
Nằm khểnh ngắm đời cười!
CCXCIV. — CÂY GẤM[44]
Hôm nay ngắn ghê! Hôm qua... thôi!
Gió, sương tàn-phá năm muộn rồi!
Cây biếc hóa cây gấm!
Muôn suối đêm ngày nước chảy xuôi!
Tường thành đồn cũ đá mốc thếch!
Gò xanh nương náu thân thằng tôi!
Bay thư Bạch-Đế xoay bữa gạo!
Sách, đàn, ghế, gậy đầy nhà ôi!
Ngựa trời què theo đàn trâu lọc!
Đầy đồng cỏ chết sạch như chùi!
Xưa nay thánh-hiền đều bạc mạnh!
Công, hầu rặt bọn khéo luồn chui!
Ba năm mới được tin quê cũ:
Núi Chung, sông Vị đầy tanh hôi!
Áo mũ nghênh-ngang phường trẻ nhãi!
Dòng sang ngày trước thảy suy đồi!
Sinh trai đời nay cần khỏe trước.
Sinh gái giầu sang cũng nghiêng nước!
Đừng lo cha, mẹ kém bạc-tiền!
Đời loạn sinh trai cũng là được!
- ▲ Đầy tớ Đào-Nghiễn giỏi lặn, sau lặn sông mò gươm bị chết đuối.
- ▲ Tục cổ: đảo-vũ không được thị đánh các đồng, cốt, và phơi những người-gù lưng ra nắng.
- ▲ Cá ngọc, chén vàng là những thứ chôn theo các vua. Hai câu này ý nói các lăng bị đào trộm.
- ▲ Hàn quốc công tên là Trương-nhân-Nguyện
- ▲ Hồi Hoạt.
- ▲ An Lộc-Sơn.
- ▲ Đương Cao-tổ khởi quân từ Tấn-Dương.
- ▲ a ă Những món ngày xưa xứ ta phải đem cống vua Tầu.
- ▲ Trong dinh Thượng-Thư, tường đều nề phấn trắng, và vẽ hình các hiền-sĩ đời xưa.
- ▲ Hán Vũ Đế dựng xây một cái cột cao, trên để chiếc mâm đồng hứng móc (sương ngọt) để luyện thuốc trường sinh, gọi cột đó là « cây vàng ».
- ▲ Quan-Doãn trông thấy bóng mây hồng ở trên ải Hàm-Cốc mà biết Lão-Tử sắp tới.
- ▲ Tên một loài chim
- ▲ a ă Trong vực Côn-Minh, có hai tượng đá, làm hình vợ chồng Ngâu, một tượng ở bờ phía Đông, một tượng ở bờ phía Tây. Lại có mấy con cá kình bằng ngọc-thạch. Mỗi khi mưa gió vây cá, đuôi cá lại thấy cử động!
- ▲ Tống-Ngọc có viết bài phú Cao-Đường, kể truyện Sở Tương Vương nằm mộng gặp thần-nữ.
- ▲ Minh-phi, tức Chiêu-Quân.
- ▲ Những vỏ hến ở núi, người ta gọi là én đá. Tục truyền én đá bay thì trời mưa.
- ▲ Gái thần sớm làm mây mà chiều làm mưa.
- ▲ Các quan hầu vua đều phải ngậm hương.
- ▲ Nhổ tóc trắng để làm ra vẻ trẻ.
- ▲ Vợ Đậu-Thao thêu thơ vào gấm để gửi cho chồng.
- ▲ An Lộc-sơn nguyên là con nuôi của Đường Minh-Hoàng!
- ▲ Trương-Lương cho người lên núi thổi sáo, để gợi lòng nhớ nhà của quân Hạng-Vũ-vì thế quân Hạng-Vũ tan vỡ.
- ▲ Bản sáo « Vũ Khê Xuân » làm ra khi Mã, Viện sang nước ta.
- ▲ Bản sáo xưa có bài « chiết liễu ».
- ▲ Thôi Thượng, Ngụy-khải-Tâm, bạn của thi-sĩ
- ▲ Ban-cố, Dương-Hùng, hai danh-sĩ đời Hán.
- ▲ Một nhà dòng sang về đời Tấn.
- ▲ Chuyên-Chư giấu thanh gươm nhỏ vào trong bụng cá, nhân lúc ăn tiệc, rút gươm ra giết Vương Liêu. Chu Mãi-Thần lưng đeo ấn vàng...
- ▲ Khuất-Nguyên, Giã-Nghị, Tào Thực, Lưu.... đều là các danh sĩ.
- ▲ Tô-Dự.
- ▲ Một tay bắn giỏi đời Tấn.
- ▲ Giới Tử Thôi trốn vào núi không chịu ra làm quan!
- ▲ Phạm Lãi, một mưu-sĩ của Câu-Tiễn, vua nước Việt.
- ▲ Ông, cha thi-sĩ đều có tài thơ.
- ▲ Lão đẽo bánh xe không thể đem nghề mình mà dậy cho con giỏi!
- ▲ Gươm long-tuyền chôn ở dưới đất mà hào quang bốc lên tận sao Ngưu, sao Đẩu
- ▲ Ao ở trên đỉnh núi cao.
- ▲ Thần-Nữ nói với Sở Tương-Vương « Thiếp: làm mưa buổi chiều;
« Làm mây buổi mai,
« Chiều chiều, mai mai,
« Ở dưới Đài-Dương!
- ▲ Một đỉnh cao nhất trong rẫy Thái sơn.
- ▲ Tên núi.
- ▲ Dương-Quý-Phi thích ăn vải, dân miền Nam phải tiến vải rất khổ.
- ▲ Mả Đường Minh-Hoàng ở Ly-sơn.
- ▲ Thần sương.
- ▲ Tức là cây đông-hồng của ta.