Quốc văn trích diễm/Hán Việt văn biểu/§ 2/IV
IV — CẬN KIM THỜI-ĐẠI
CÁC VIỆC CẢI CÁCH
Ở Nam-kỳ, sau khi xứ ấy đã nhượng làm thuộc-địa Pháp (1867) Chính-phủ bãi các khoa thi và các trường học chữ nho ma đặt ra nền học Pháp-Việt.
Ở Bắc, Trung-kỳ, sự cải-cách có phần chậm hơn và phải làm lần lần:
1906: đặt Hội-đồng cải-lương học-vụ ở Đông-Pháp để đổi lại chương-trình Nam-học, gồm có 3 bực:
1• | Ấu-học (trường các làng) thi tuyển-sinh | dạy vừa chữ nho | |
2• | Tiểu-học (trường phủ huyện) thi khóa-sinh | vừa quốc-ngữ | |
3• | Trung-học (trường tỉnh) thi hương (dạy thêm cả pháp-văn nữa). |
Từ 1907 về sau, bớt dần địa-vị chữ nho và tăng thêm địa-vị chữ pháp trong các trường:
1908: đặt Học-bộ để thi-hành việc cải-lương ấy.
1915: bãi thi hương ở Bắc-kỳ.
1919: bãi khoa cử và nền hán-học ở Trung, Bắc-kỳ thay vào nền học Pháp-việt thuộc quyền Chính-phủ Bảo-hộ trông nom, nền học này bộ học-luật (Code de l’instruction publique) ban-hành ngày 21-12-1917 đã chỉnh-đốn lại.