Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhì/Sa Đéc
Sa-Đéc
Sa-đéc phong cảnh thi:
Có danh đời cựu phủ Tân-thành,
Sa-đéc vui nay cảnh thích tình.
Đèn Vỉnh-phước ngời hình nguyệt chói,
Cồn Tân-qui nổi dạng cù đoanh.
Nhà dân phố chợ nhiều nơi lịch,
Chùa phật đình thần lắm chổ xinh.
Vườn ruộng ấm no phong tục tốt,
Nhớ Cao-hoàng-đế thuở trần binh.
Sa-đéc nguyên phủ Tân-thành, Thuộc An-giang tỉnh đất bình trung châu.
Đổi dời mấy độ bể dâu, Nước nhà sắp đặt lớp sau chĩnh tề.
Đuôi cồn bồi dưỡng sa nê. Bố đường thiết lập tư bề vẻn vang.
Trường nam trường nữ của quan, Ơn trên dạy dỗ lớp lang khéo dùng,
Cầu đường bốn phía rộng thông, Phố phường đông đão bên sông phía tiền.
Vỉnh-phước Tân-phú liền liền, Trên nhà cữa chậc dưới thuyền ghe đông.
Tối thì đèn đỏ chói sông, Ngày thì buôn bán thạnh sung lạc tình.
Làng Tân-dương cảnh thần đình, Nhơn cơ nghĩa chĩ thái bình oai nghi.
Bởi trên kẻ lớn phải nghì, Là ông Cai-tổng người thì tên Cang.
Hảo tâm xướng thỉ khải đoan, Nội làng tùng phục sữa an cảnh thần.
Đã liêm cáng, lại thận cần, Phải trang tuổi tát tu thân vẹn toàn.
Con trai lớn, làm việc làng, Người con trai thứ chức sang cầm đường.
Hai bên bàn cận thôn hương, Phong thuần tục mỷ thủ thường chẳng sai.
Đình Vỉnh-phước, bực thứ hai, Với đình Tân-phú lâu dài vĩnh vi.
Cái-tàu-hạ, với Tân-qui, Tân-hưng ba cảnh đều thì hạng ba.
Đẹp thay các cảnh chùa ta, Mấy ông thầy sãi trẻ già rau tương.
Thiên-chúa lầu cát một phương, Cất ở gần đường dưới rạch Cần-thơ.
Mỗi tuần kinh sách phụng thờ, Người trong bỗn đạo tư cơ lâu dài.
Chùa ông Xã-Vạt lưu lai, Nguyên xưa ông ấy sáng khai đến chừ.
Sau Huỳnh-chơn-Giác pháp sư, Học thông nho thích ẩn cư trụ trì.
Khôn lanh chữ nghĩa ai bì, Tuổi hơn sáu chục hồn quì âm-cung.
Làng Phú-hựu Bang-biện Long, Gia tư hào hộ vẹn xong nhơn nghì.
Tánh hay tế hiễm phò nguy, Ruột gan trải đãi lắm khi giúp người.
Thung đường cao hưởng tuổi trời, Miếng ngon vật lạ thảnh thơi phụng thờ.
Cữa nhà bền vững tư cơ, Ruộng vườn sự nghiệp bây giờ dinh dư.
Người anh rể làm Hương-sư, Tên là Công-Trứ gia cư phú hào.
Vợ chồng hòa thuận ra vào, Nghĩa phương giáo tữ thiện giao hữu bằng.
Giữ gìn lương thiện làm căn, Vẹn tròn ngay thảo lòng hằng thỉ chung.
Châu-thành buôn bán thạnh sung, Tàu đò hai chiếc người đông đi thường.
Ghe đò các chợ các phương, Rước đưa đưa rước chực đường xanh quanh.
Trầu cau vườn tược tươi xinh, Cá hô gà cựa có danh Nam-kỳ.
Kẹo đậu phộng, chẳng thiếu chi, Kẹo nơi Sa-đéc bán thì tiền muôn.
Nhà dân ở, ít chổ buồn, Trong vườn ngoài ruộng luôn luôn có nhà.
Lầu quan Chánh-bố một tòa, Mấy ông liêu thuộc xem đà phải quan.
Cựu Đốc-phủ Trần-đức-Tràng, Hiền lành nhơn hậu vẹn toàn thân danh.
Nay đà hưu-trí lão thành, Hội-đồng nghị-viện phận đành dưởng yên.
Đốc-phủ-sứ Lê-quang-Hiền, Nguyên xưa quê quán ở miền Bến-tre.
Tánh ngài không siểm không khoe, Mấy năm giúp nước đồn nghe trong ngoài.
Tan bồng phĩ lấy chí trai, Khi ra Bắc cảnh cầm đài lưu thinh.
Đến khi Nam địa qui trình, Các quan liển đối tặng minh nhiều lời.
Tân-thành để lị thảnh thơi, Hai mươi năm ngợi một nơi cam đường.
Hàn-lâm kiêm-khánh chiêu chương, Bữu-tinh thưởng thọ hiển dương huân thần.
Trước sau vẹn giữ thanh cần, Tiếng thơm bay khắp từ gần đến xa.
Con trai qua nước Phan-sa, Học làm thầy thuốc đã đà nên danh.
Người là tên gọi Quang-Trinh, Y thơ các sách giảng minh nhiệm mầu.
Tữ tôn thiệu nghiệp cơ cầu, Rạng ngời phước đức làu làu trăng thu.
Thầy thông Nhượng biết chữ nhu, Yên hà vui thú một câu thanh nhàn.
Thung dung khi rượu khi đàng, Trời cho phần phước giàu sang về già.
Tân-qui sung thạnh cữa nhà, Có Hồ-văn-Lẫm phải là tên dân.
Làm ăn nổi tiếng vang rân, Ruột gan trải đải mấy lần kinh dinh.
Ruổi ro mạng vận chưa thành, Khiến ra chung cuộc thất danh hùng hào.
Mé trên sông cái vận đào, Chổ Cái-bè cạng lở vào đã lâu.
Bởi vì dọt nước hẫm sâu, Sóng to gió lớn nghịch nhau phá hoài.
Lở luôn một khúc quá dài, Quan-lớn Sen trước, mả ngài dời xa.
Đội nhờ ân hậu quốc gia, Giúp tiền cho phép sữa đà chiêu chương.
Tân-thành xứ tốt ruộng vườn, Thanh hoa đẳng vật thường thường đẹp xinh.
Cù-lao đất rộng thinh thinh, Chổ sông nước xoáy tắc quanh chảy dồn.
Hồi-Luân chữ đặt lưu tồn, Cao-hoàng thuở trước ngự đồn đóng binh.
Còn câu hát hãy đành rành, Nói luôn cho biết dân tình không ngui.
Qua sông nước xoáy ngùi ngùi, Nhớ Cao-hoàng trước chúa tôi một lòng.
Đó là sông mé phía trong, Mé ngoài tục ngữ gọi sông Mương-đào.
Sông Đất-sét, bờ quá cao, Lên Cái-tàu-thượng giáp vào Long-xuyên.
Điền viên căng bổn bạc tiền, Rẫy trồng bông trái khắp miền dưới trên.
Phía bên Long-ẩn đi lên, Thấu nơi Cao-lãnh là bên đất liền.
Trước thì kế cận giang biên, Sau thì kinh rạch liên liên vạn trùng.
Giáp qua Thập-tháp cả đồng, Lợi nhờ lúa cá để dùng dinh sanh.
Cao-lảnh xứ quê mà danh, Miễu thờ Khỗng-tữ đại thành tiên sư.
Thuở kia gầy dựng thảo lư, Chỗ còn hẹp nhỏ chưa dư bạc tiền.
Cựu trào Phủ-Đính lạc huyên, Người trong thinh khí của riêng hội tề.
Buỗi đầu không mấy phủ phê, Song le tế tự giữ bề khiếc tinh.
Quản-bộ-đạo, Phạm-văn-Khanh, Vui lòng lương thiện của mình cúng thêm.
Trùng tu miễu vỏ trang nghiêm, Sỉ phu có chỗ ngưỡng chim thánh hiền.
Nội làng cầu lộ lưởng biên, Ông Khanh bồi đắp nhọc siêng tấm lòng.
Đình thần chùa phật chùa ông, Thảy đều sữa lại ngoài trong rạng ngời.
Nghĩa binh qui tụ Tháp-mười, Ông Khanh thuở ấy giúp người đặng an.
Ơn nhờ Nhà-nước hậu ban, Cho binh cho súng bảo toàn thôn hương.
Đã lâu về chốn Diêm-đường, Dấu roi tiếng tốt hiển dương phận già.
Hòa-an, Tân-thuận, Mỷ-trà, Hai bên làng xã đều là mang ơn.
Làng Hòa-an tục lịch hơn, Quan viên chức sắc nghĩa nhơn ở đời.
Học hành còn hẫy nhiều người, Thơ bài đờn địch ăn chơi tiếng đồn.
Vàm Cái-nứa, Vĩnh-thới thôn, Có ông Cả-Thiện lưu tồn thinh danh.
Vợ chồng nhơn đức hiền lành, Giúp người nghèo khó xanh quanh xóm làng.
Các ngôi chùa miễu sữa an, Dạy con lể nghĩa lưu phan gia đình.
Sanh ra nam nữ trưởng thành, Chia cho phần thựt đành rành khuôn viên.
Lạ thay sự tích cô Hiên, Con ông Cả-Cẫn ở miền Nha-mân.
Tuỗi vừa mười sáu đương xuân, Chèo ghe rước mẹ ruỗi thân bị chìm.
Linh hồn trinh nữ lặng yêm, Thương cha mẹ yếu với em dại khờ.
Ghe phen hiển hiện sờ sờ, Giúp trong gia đạo tư cơ vững bền.
Thường khi Châu-đốc đi lên, Thuở ông Hữu-Dực trấn bên An, Hà.
Khi thời dạo xuống đường xa, Vách thành cữa hữu cây da Long-hồ.
Khi thời hiện xuống Mỷ-tho, Khi qua Chợ-lớn ra vô Chùa-bà.
Tới đâu hay cứu người ta, Thai sanh sảng nạn nhiều nhà mang ơn.
Rỏ ràng chuyện thật nguồn cơn, Cũng là tú khí dinh huờn không phai.
Diễn ca một cuốn an bài, hai mươi hai hạt trong ngoài kể ra.
Vủng-tàu Bà-rịa Biên-hòa, Qua Thủ-dầu-một lại là Tây-ninh.
Sài-gòn Gia-định thinh thinh, Chợ-lớn Châu-thành biết mấy thanh quan.
Hỏa-xa kinh quá Tân-an, Đất liền giáp với các làng Gò-công.
Bến-tre với Mỷ dân đông, Hai bên phong cảnh thạnh sung đẹp tình.
Vĩnh-long qua thấu Trà-vinh, Sốc-trăng rồi lại kế thành Bạc-liêu.
Cần-thơ thổ địa phì nhiêu, Trời cho thâu hoạch lúa nhiều vạng thiên.
Long-xuyên Rạch-giá Hà-tiên, Giáp ra Châu-đốc xuống liên Tân-thành.
Tục kêu Sa-đéc thành danh, Bỗn căng vườn ruộng tươi xinh đầy đường.
Trời đà sắp định phong cương, Bởi người ăn ở sữa đương mới mầu.
In ra hai cuốn trước sau, Vắn dài ước bảy ngàn câu đành rành.
Nay đà hai cuốn ấn hành, Xiết bao cảnh vật linh tinh xa gần.
Kể sơ chánh ngạch bộ dân, Sáu mươi dư vạng ăn mần các nơi.
Nam phụ lão ấu bộ đời, Chừng hơn ba triệu ơn trời hóa sanh.
Trải xem đại khái dân Thanh, Hơn mười ba vạng dinh sanh mẫn cần.
Ngày nay chánh trị đời tàn, Tục còn nước cựu nhơn dân lạc nhàn.
Thổ nghi phong cảnh cả ngàn, Nói sao cho hết mọi làng mọi nơi.
Làm ăn thong thã nghĩ ngơi, Khi lo mệt nhọc khi chơi bĩ bàn.
Càng ngày đông đảo lịch sang, Cội nền bão hộ thạnh an cữu trường.
Quấc âm cứ thiệt điển tường, Dở hay thêm bớt kính nhường đạt nhơn.
CHUNG
Phụ Tài-nữ Phan ngọc Anh vịnh quoc âm.
nam-kì nàn ấy nhơn có lời vịnh ấy.
Ngan năm gặp gỡ hội minh lương.
Thiên hạ ngày này mới mỡ mang.
Tất đất ngọn rau noi dấu củ.
Đai cơm bầu nước chực bông fường.
Vui lồng Thánh đế nơi xe ngựa
Xót dạ thờn dân chốn lửa thang.
Nước mắt anh hùng lau chẳng coó
Tang thương mấy cụt nghĩ mà thương.