Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhì/Châu Đốc

Châu-Đốc

Châu-đốc phong cảnh thi:

Vui xem Châu-đốc cảnh thêm xinh,
Nhớ thuở Thoại-hầu trấn Vĩnh-thanh.
Sông-trước sông-sau chia tả hữu,
Núi-sam Núi-két dấu anh linh.
Rạch ngòi giồng án không cùng lợi,
Cá mắm tầm tơ đệ nhứt danh.
May có Tú-Thường người biết học,
Ra công dạy dổ trẻ mày xanh.

Châu-đốc nguyên trấn Vỉnh-thanh, Đặt đồn Châu-đốc lủy thành vẻn vang.
Sau phân làm tĩnh An-giang, Nay Châu-đốc hạt sữa sang chỉnh tề.
Trước sông đá cẩn bực lề, Bố-đường cao rộng tư bề quan nghiêm.
Hình như tiên cảnh lặng yêm, Nhơn dân lạc nghiệp lư diêm mật trù.
Sông quanh uống khúc tợ cù. Châu-thành phố xá giai cù đoan trang.
Nhứt là ngã lộ Tây-an, Thẳng ngay rộng lớn lưởng bàn có mương.
Lâu nay thiên-hạ kêu thường, Mương sâu mương cạn theo đường phân minh.
Thường niên ngư biết mảng dinh, Dân mua thủy lợi lợi sanh trăm ngàn.
Mười tổng chín mươi chín làng, Ai ai cũng ở nhà sàng cao chưn.
Bởi mùa nước ngập không chừng, Khi to khi nhỏ đầy lưng khó dè.

Vậy nên sắm sẳng nhà bè, Trữ đồ buôn bán xuồng ghe mua thường.
Tốt thay Châu-phú thôn hương, Miểu chùa nhà việc phô trương kỉ càng.
Hềm vì một chổ tồi tàng, Miểu quan Chưởng-lể bỏ oan bấy chầy.
Ngài xưa công nặng đức dày, Mở mang bờ cỏi dẹp bầy kiến ong.
Miểu thờ vỉnh viển non sông, Cù-lao Ông Chưởng người đồng thấy nghe.
Biên-hòa một sở chỉnh tề, Bởi vì thiện tính lạc đề háo thi.
Huống chi Châu-đốc nhơn nghì, Viên quan hương chức nở gì lấp ngơ.
Chung tiền bồi đắp tư cơ, Thì phần phước ấy cũng nhờ về sau.
Tục hay háo chuyện nhương cầu, Thĩnh Thần-tiên xuống hỏi âu dữ lành.
Thổ-thần ở rạch Hộ-thành, Xóm kêu Hàng-xáo hiển linh lên thường.
Phụ cơ viết chữ chán chường, Nhiều khi ứng nghiệm tỏ tường không sai.
Nhà thờ cao lớn rộng dài, Học trường dạy dổ nuôi tài thiếu niên.
Trần-hữu-Huân, cũng sỉ hiền, Nguyên xưa làm Huyện ở miền Bạc-liêu.
Chánh lành người thảy chuộng yêu, Gia đình hiếu hữu dạy nhiều môn nhơn.
Thanh nhàn tài phú dưởng chơn, Tuy đà tử biệt còn cơn cảm tình.
Lâm-phước-Triều, người nước Thanh, Người hay gan ruột kinh dinh cơ đồ.
Lập thành đại nghiệp qui mô, Tiệm kia tiệm nọ buôn to muôn ngàn.
Tiếng đồn Châu-đốc thất sang, Kễ sao cho hết cã ngàn danh nham.
Lịch thay phong cảnh núi Sam, Mã quan Tiền-nhậm thuở làm lắm công.
Thoại-hầu tiếc rạng non sông, Còn ngôi thạch mộ người đồng gọi lăng.
Núi Sam phía bắc dưới chưn, Đấp phong mã lạp bỗn căng một nền.
Ngài xưa bão hộ Cao-mên, Ghe phen án thủ giử bền an biên.
Đào kinh Lạc-dục Long-xuyên, Giáp vô Rạch-giá bia truyền Thoại-sơn.
Đào kinh Vỉnh-tế lại hơn, Danh chồng danh vợ không sờn cã hai.
Thoại-Sơn thì đặt tên ngài, Bà là tên Tế lâu dài với sông.
Sông tên bà, núi tên ông, Thoại-Sơn Vĩnh-Tế song song miêng trường.
Cách chừng vừa một dặm đường, Có am Bà-Thợ lữa hương phụng trì.
Thầy Thông-Cang, bụng háo thi, Tháp chôn Bà-Thợ tốn khi quá ngàn.
Cang chịu bạc hơn một ngàn, Còn bao nhiêu nữa phân chang cho người.
Suối vàng Bà-Thợ ngậm cười, Thầy-Cang cũng tiếng rạng ngời muôn năm.
Thương thay người rất hảo tâm, Rũi ro nay đã qui âm số trời.
Sống sao thác vậy nhớ lời, Đem về an táng kế nơi tháp bà.
Thiện nam tín nữ gần xa, Nội Châu-đốc hạt đều là yêu thương.
Tạc làm thần chủ tỏ tường, Thờ trong am tự thường thường nghiêm trang.
Một tòa chùa phật Tây-an, Nhứt-thừa-hòa-thượng thanh nhàn tiên du.
Roi truyền y bát mấy thu, Nay còn các sãi giữ tu đến rày.
Núi-sam trên núi cao xây, Tháp đài vọi vọi ngó tày vân tiêu.
Cây reo tiếng tợ tiêu thiều, Sương mơi mát mẻ gió chiều lai rai.
Nhà lầu rộng rãi an bài, Mỗi phòng đều có cẩm lai váng ngồi.
Lính thường canh gát lau chuồi, Các loài thập vật một ngôi sẳng sàng.
Bông hoa cây trái tứ bàn, Đường quanh theo núi đi càng thung dung.
Tốn hao biết mấy nhơn công, Chi nhường phong cảnh chỗ Bồng-lai tiên.

Quan gia luôi tới liền liền, Núi Sam danh tiếng cũng miền thanh bai.
Trà-sư cho đến núi Giài, Dân cư rẩy ruộng lúa khoai đầy đường.
Đốc-công tạo lập sở vườn, Thanh hoa đẳng vật coi thường vẻn vang.
Cất bên một cái nhà bàn, Để khi ăn uống nghĩ an luận bàng.
Sau lập chợ phố hai hàng, Người đều kêu chợ Nhà-bàn thành danh.
Vui xem Núi-két cảnh xinh, La-kê Đốc-học lập thành vườn to.
Bấy lâu gầy dựng qui mô, Nay đà cây trái trời cho hưởng nhờ.
Cư dân trù mật cõi bờ, Ruộng vườn rẫy bái tư cơ trăm ngàn.
Cây dương trồng thẳng một hàng, Tại chùa Bóng-thị cảnh càng lịch thanh.
Chùa coi tinh khiết hữu tình, Mà đồ vật dụng sắm sanh quá kỳ.
Ghế giường chén dỉa thiếu chi, Mùng mền chiếu gối biết thì bao nhiêu.
Đêm khuya cúng cấp quạnh hiêu, Chùa không thờ phật bàn nhiều nghinh ngang.
Thị là bỗn chấc nam trang, Mà bề cữ chĩ giả trang nữ hình.
Tu hành bày sự trớ trinh, Gạt người lấy của kinh dinh cho mình.
Núi Đài-tốn, chỗ anh linh, Mên kêu Xoài-tón âm thinh cũng gần.
Nghề hay đồ gốm hỏa phần, Cà ràng trách trã người mần thường xuyên.
Bắp khoai mía đậu khắp miền, Phố phường nhà cữa xóm riềng nghiêm trang.
Học trường điễn xá của quan, Miễu chùa tu chĩnh lớp lang phải bề.
Tuy là một chỗ xứ quê, Trên bờ dưới nước phủ phê bĩ bàn.
Nguyên xưa đất lắm hoan nhàn, Mấy ông lớp trước mở mang rạch cồn.
Sở tại là Hưng-nhượng thôn, Thành-hoàng miễu vỏ nghiễm tôn một tòa.
Thuở chưa thiết lập quan nha, Ông Tri-huyện Ở vỏ ca đình thần.
Vỏ-văn-Vạng, tánh mẫn cần, Việc quan khuya sớm dần dần ra công.
Đào kinh tên Bọt-cơ-giông, Thấy dân nghèo khỗ lấy lòng thương dân.
Chạy tờ xin tĩnh thi ân, Quan trên cho bạc tạo tân Huyện đường.
Lại xin lập điễn báo trường, Sữa sang phong cảnh dạy hương chức làng.
Thất sơn hòn dọc hòn ngang, Nói sao cho xiết cả ngàn phong cương.
Sa nhơn trầm tốc giáng hương, Thổ nghi dược liệu thường thường có sanh.
Bông mai vàng trắng tươi xinh, Đến mùa bẻ xuống bán nhành chơi xuân.
Cát với đá, vật trong rừng, Dân nhờ huê lợi chuyễn luân xây dùng.
Vôi thì tại xứ Càng-long, Núi-sam đá tốt cát ròng trắng tinh.
Mấy cù lao ở xanh quanh, Lao-ba thứ nhứt đậu xanh dâu chàm.
Bắp dưa khoai mía siêng làm, Dân cư hai phía Bắc Nam mật trù.
Đẹp thay địa cảnh Tân-châu, Kiễm-lâm ở đó coi thâu thuế bè.
Các bè cây gỗ kiến tre, Nơi trên sông lớn thã về ghé ngang.
Kiểm-lâm xem xét kỉ càng, Nạp đăng bạc thuế rỏ ràng rồi đi.
Dinh quan Đốc-phủ oai nghi, Phần ngài cai trị vậy thì xả dân.
Nguyễn-trung-Thu, nết thận cần, Sữa nên phong tục mỷ thuần khá khen.
Kề mé sông chợ đông ken, Bán buôn đông đảo tối đèn sáng giăng.
Bờ kinh nhà cữa lăng xăng, Xóm nhà đông lắm gọi rằng Châu-giang.
Gốc xưa Ai-cập đem sang, Lớp nào không biết ở an đến rày.
Ngày nay sanh đẻ đông dầy, Nam phụ lão ấu cả bầy cả phe.

Nghề hay buôn bán dưới bè, Chở chuyên cây váng xuồng ghe bộn bàn.
Thuốc trên sông lớn Nam-vang, Mua về bán khắp lưởng giang hậu tiền.
Bán đồ gấm nhiểu thường niên, Rạch-ngòi ruộng rẩy tánh siêng làm hoài.
Đi ghe đem dỏi lưới chài, Kiếm tôm kiếm cá hôm mai đở tiền.
Nhặc nghiêm rượu thịt cữ kiêng, Trà ngon bánh tốt sắm liền để ăn.
Giữ bề cần kiệm làm căn. Bảy ngày một bữa lệ hằng nghỉ ngơi.
Coi cũng như đạo Chúa Trời, Đến ngày lể bái vui chơi thanh nhàn.
Lệ bữa nghĩ, chà Châu-giang, Đọc kinh đánh trống vái vang tại chùa.
Chùa không thờ phật thờ vua, Tư bề trống trải như chùa bỏ hoan.
Đâu đâu sạch sẻ kỉ càng, Nhắm mặt trời lạy lại càng thành tâm.
Đọc kinh Ai-cập thinh âm, Cứ ngày ba buổi lăm dăm lạy trời.
Mổi năm chừng đến tháng mười, Lệ bày đoạn thựt phép thờ quá gay.
Không ăn nhịn đói cả ngày, Nữa đêm thinh tịnh dọn rày ra ăn.
Nhịn trong một tháng thẳng băn, Gốc xưa Hồi-giáo lưu căng tới rày.
Tên Ma-cáp-Mặt cũng hay, Tổ-sư Hồi-giáo làm thầy khởi ra.
Người sanh tại xứ Mạch-gia, Làm nên sách dạy gọi là Khả-lang.
Phép đạo rằng Y-tư-lang, Lưu truyền đồ đệ muôn ngàn thạnh đông.
Tây nam các nước phục tùng, Miểu thờ Cáp-mặt tôn sùng vạn niên.
Thuở kia đội ngủ binh biền, Kêu quân chiến thắng trận liền lập công.
Đua ghe có tiếng Nam-trung, Nhẹ nhàn mạnh lẹ ruổi dung hướng tiền.
Cám thương ông Hiệp-quản-Tuyên, Người đều khen ngợi sanh tiền trung cang.
Châu-giang tục cất nhà sàng, Mái xuôi nóc dọc vẻn vang ra vào.
Chừa song cữa nhỏ trên cao, Thường khi đóng lại khích khao không dùng.
Chừng nào cữa ấy mở thông, Trong nhà con gái đã chồng an nơi.
Tánh không lảng phí ăn chơi, Gái trai cần mẩn lẻ trời tự nhiên.
Làm ăn ưa ở giang biên, Dể bề xây dụng chở chuyên gần nhà.
Vũng-bình-thiên phía trên xa, Ca-cô-ki cũng xóm Chà ở đông.
Thỗ nghi phong tục lược đồng, Coi ra đại khái như dòng Châu-giang.
Chà Ca-cô lắm thói gian, Năng đi giả mạo xưng quan xưng thầy.
Lao-táng-dù đẹp lắm thay, Tiếng lụa Bà-Tứ lâu nay danh đồn.
Thiệt thà dân ở hương thôn, Nghề trồng dưa đậu đầy cồn lịch thanh.
Cái-vừng thổ sảng rất xinh, Xứ làm tơ lụa có danh Nam-kỳ.
Dưới trên rẩy ruộng thiếu chi, Miểu chùa tế tự lể nghi tỏ tường.
Có người dự trúng khoa trường, Làm thầy nho học Tú-Thường là tên.
Mấy chục năm nay rất bền, Học trò các xứ xuống lên ra vào.
Lao-tây một chỗ cù-lao, Nhà thờ Thiên-chúa xây cao hai từng.
Bông hoa cây trái đua mừng, Tư bề ruộng khẫn kinh rừng mới khai.
Mã-trường rạch dọc mà dài, Tục kêu Ruột-ngựa còn hoài hiệu danh.
Thường niên thủy lợi thâu thành, Mua đi bán lại dinh sanh đủ dùng.
Dân nhờ lúa gạo thêm sung, Lại thêm đồ rẩy trồng cùng hương thôn.
Vàm-nao Giao-lữa các cồn, Tục dân cư xữ lưu tồn cổ phong.
Cao-hoàng thuở trước tìm long, Tây-sơn tặc đảng điệp trùng xăm lăng.

Ngang qua theo mé Ba-răng, Rạch ngòi thủy lợi giăng giăng cả đồng.
Mặt-dòn thượng hạ song song, Diện-hầu thượng hạ chử trong bộ làng.
Tục kêu hai xứ rỏ ràng, Sở trên sở dưới muôn ngàn dân đông.
Biết bao nhiêu giống cá đồng, Phái-viên các cậu mua trùm trên quan.
Rồi thì bán lại cho làng, Mấy người cầm rạch chứa chang bạc tiền.
Trà-đư Hùng-ngự các miền, Với hai sở ấy đất liền ở trong.
Sông dài nước cỏ minh mông, Cá sanh tràng nhẫy ruỗi dong rạch nò.
Lóc rô trên kết sặc vồ, Các loài cá ấy Biển-hồ khác xa.
Biễn-hồ thì tiếng cá tra, Châu-đốc vồ đém với là trèn-răng.
Điếm đàng cờ bạc lăng xăng, Thú vui đĩ thả ở giăng xóm làng.
Thầy làm thuốc dạo cũng nhàn, Đậu ghe theo chỗ tể hoàn đơn cao.
Tối thì mòng muỗi ào ào, Ở đâu quen đó biết sao mà từ.
Châu-đốc lúa gạo không dư, Nhờ sơn thủy lợi lợi cừ vạn thiên.
Sông Vĩnh-tế, vào Tịnh-biên, Dân cư theo xóm địa liên Giang-thành.
Giang-thành có miễu anh linh, Thờ ba ông lớn sự kinh lâu đời.
Xứ coi quê kịch một nơi, Mà bề tế tự cúng mời đủ nghi.
Khá khen hương chức nhơn nghì, Ngọn rau tất đất lắm khi kính thành.
Nam-kỳ biết mấy rạch kinh, Một kinh Vỉnh-tế có danh rộng dài.
Hớn Mên xen ở trong ngoài, Kheo khư sơn cước một vài chổ xinh.
Xiếc bao bờ bụi linh tinh, Vào tới Giang-thành có ngã chia hai.
Tả biên ngó thấy Pháo-đài, Bên kia phá biễn mé ngoài Hà-tiên.
Hữu biên Sốc-mẹt tới miền, Giáp lên Mên cảnh đất liền minh minh.
Dầu chai tiếng xứ Lình-quỳnh, So bề đuộm tốt Tây-ninh hơn nhiều.
Trời sanh phong thổ mỷ miều, Nước non lợi lộc biết nhiêu bạc vàng.
Bởi vì tiền hậu nhị giang, Đuôi cù lao Kết rỏ ràng phân hai.
Sông sau một ngọn lớn dài, Bên kia Châu-đốc xuống hoài vơi vơi.
Chảy về Ba-thắc các nơi, Chảy luôn ra biễn sa khơi vô chừng.
Sông trước phía bên Cái-vừng, Tàu Nam-vang tới thì ngừng Tân-châu.
Chảy về Sa-đéc Cái-tàu, Vỉnh-long xuống Mỷ có cầu nghiêm trang.
Chảy ra cữa-tiểu một đàng, Hai bên các rạch trăm ngàn linh tinh.