Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhì/Hà Tiên
Hà-Tiên
Hà-tiên phong cảnh thi:
Hà-tiên non nước cảnh vui tình,
Thập vịnh hiền xưa đã tạc danh.
Đảnh-pháo-đài, đăng quang chiếu diện,
Mạt-tiên-công, miễu vỏ anh linh.
Am chùa hang động nhiều nơi cổ,
Thơ phú rượu đờn lắm kẻ thanh.
Nhớ thuở Cao-hoàng hưng đế nghiệp,
Bầy xà cứu giá giữa dòng xanh.
Hà-tiên phong cảnh lịch thanh, Nguyên xưa Mạt-Cữu riêng mình phụ dung.
Tục kêu là Mạc-tiên-công, Gốc vì để tóc một lòng thờ Minh.
Cam bề chẳng ở đất Thanh, Huề gia khiết quyến tách mình trùng dương.
Qua Hà-tiên, lập phong cương, Câu liên trước cữa người thường đọc vang.
自 家 膚 髮 完 忠 孝
浮 海 波 濤 外 死 生
Hiếu-vương chúa Nguyễn sắc ban, Phong Tổng binh chức một phương chuyên quyền.
Hiệu Vĩnh-thạnh Ất-vì niên, Giặc Mên đánh phá Hà-tiên không dè.
Tiên-công thoàn chạy Vủng-kè, Phu-nhơn Bùi-thị tư bề hoản kinh.
Giữa sông chuyễn bụng thình lình, Đẻ ông Thiên-Tích lòa mình hào quang.
Lồi lên một vị Phật vàng, Lớn cao dồ sộ thấy càng sợ ghê
Sáng ra xem xét tư bề, Sai quân diều dở khiêng xê vô bờ.
Công bèn tướng địa khai cơ, Lập chùa mé nước phụng thờ đến nay.
Tưởng ra điềm cũng lạ thay, Đặt tên Thiên-Tích nghĩa rày trời cho.
Dần dần sắp đặt qui mô, Làm nên sự nghiệp cơ đồ bền lâu.
Bính-Thìn Vĩnh-hựu năm sau, Cho ông Thiên-Tích tước hầu tập phong.
Mạt-hầu ăn học lắm công, Hà-tiên thập vịnh tả trong cảnh mình.
Mên thường cưu dạ bất bình, Giận vì Mạt-thị chiếm tranh biên thùy.
Tìm mưu tranh đoạt nhiều khi Ghe phen tích oán vậy thì sanh tâm.
Nắc-Vồn binh mả lai xăm, Mạt-hầu đánh phá giải dằm tuyết sương.
Đánh Mên đuỗi đã xa đường, Rượt theo bố trận đêm trường với nhau.
Phu-nhơn Nguyễn-thị kế sâu, Đem binh phụ nữ cơm âu sẳng sàng.
Cho quân thay đỗi bảo xang, Ăn no đủ sức phá tang Nắc-Vồn.
Quân Mên mất vía kinh hồn, Tự tư dỉ hậu tiếng đồn oai linh.
Đác tiền hiệu chử Thái-bình Nơi Vủng-thơm xứ đẹp tình nhơn dân.
Cao-hoàng đại mạng chơn quân, Trời xuôi gặp gở hiền thần cũng duyên.
Tây-sơn binh tướng đầy miền, Mạt-hầu cô thế ngài liền sang Xiêm.
May nhờ lân hảo một niềm, Thỉnh binh cứu viện cơ tìm ngày sau.
Bị Mên sàm nịnh gian tâu, Rằng Gia-định có Mạt-hầu mật thơ.
Mưu thâu Vọng-các cỏi bờ, Vua Xiêm bắt hết bây giờ tra minh.
Ỷ khôn đôi chối sự tình, Mạt-hầu Thiên-Tích liều mình chết oan.
Người ngay hồn xuống suối vàng, Một vùn chánh khí nhẩy tràng thương minh.
Nay còn miễu vỏ hiển linh, Mộ bi sắc tặng đành rành của vua.
Thơm tho huyết thựt bốn mùa, Người ta đều gọi rằng chùa Lịnh-công.
Trời xanh chẳng phụ hiếu trung, Dấu roi cháu chắc còn sung mối giềng.
Mạt-tử-Khâm là chắc hiền, Rừng ong phần thựt bạc tiền lửa hương
Chùa thêm tráng lệ cột rường, Bởi vì công cọng các phương của người.
Câu liên trước cữa rạng ngời, Một nhà trung nghĩa bảy đời phan ly.
一 門 忠 義 家 聲 重
七 葉 藩 翰 國 寵 荣
Tại làng Mỷ-đức oai nghi, Hậu tiền tả hửu nguy nguy miễu tòa.
Hai mươi hai hạt người ta, Biết chùa Ông-Lịnh từ xa đến gần.
Hà-tiên phong tục tế thần, Giới trai thành kính lòng cần thĩ chung.
Cổ bàn tinh khiết bề trong, Lể văn phép tắc ngoài không kiểu tình.
Cảnh chùa Thạch-động rất xinh, Cao tăng lớp trước có danh nhơn hiền.
Mấy thầy nho học Hà-tiên, Năn khi tới đó cầu tiên thường thường.
Lâm-ân phù chú cao cường, Bùa hay trấn quỉ mở trường Kỳ tiên.
Học trò có thú vui riêng, Thỉnh tiên giáng hạ đàng tiền khất thi.
Hội-đồng Hiến, Phụng-lai-Nghi, Đều là sảo biết cầm kỳ văn chương.
Châu thành phong thổ hiền lương, Cây dương trồng khắp nẻo đường gần xa.
Quan quân dinh dảy các tòa, Cất trên nổng núi xem đà đẹp xinh.
Pháo-đài nghiêm chỉnh quang minh, Vọng đăng cao vọi nơi gành Mủi-nai.
Thinh thinh nhà chợ rộng dài, Phố phường sạch sẻ trong ngoài làm ăn.
Thói dân nhựt dụng kiệm cần, Gốc xưa lể nghĩa nho văn lưu tồn.
Tô-châu, Kim-dự, tiếng đồn, Xanh quanh chơn núi hương thôn ở đầy.
Trồng tiêu làm rẩy tháng ngày, Dân nhờ huê lợi sum vầy đũ tiêu.
Hòn-chông tiêu biết bao nhiêu, Kẻ lui người tới dập dều người ta.
Nhơn dân trù mật cữa nhà, Sanh phương nghệ nghiệp trẻ già đều siêng.
Các làng chùa miểu khuôn viên, Tang hôn thù tạt theo miền thú quê.
Tàu đi Xiêm thổi xúp lê, Bộ hành chực sẳng đề huề xuống đi.
Cao-hoàng thuở ấy lắm khi, Hòn-chông Phú-quấc lưu ly ra vào.
Có hồi quân sỉ khát khao, Ăn rau đở đói miệng nào biết ngon.
Thị-Huyễn có lòng tôi con, Chở đầy ghe gạo ra hòn hiến công.
Ngày nay Phú-quốc thạnh sung, Cù-lao giữa biển dân đông vô hồi.
Huyền tinh lại với đầu mồi, Sắm ghe đi biển mắt lồi lái cao.
Long-giêng-hương, với Yến-sào, Mựt tươi mắm ruốt vẹm ngao thiếu gì.
Tục hay ăn ở phải nghì, Vãng lai thù tạt nhiều khi hết lòng.
Cây dương chẳng có ai trồng, Mọc khơi mé biển điệp trùng dinh dư.
Hòn Phú-quấc chổ kheo khư, Xứ không trộm cướp dân cư thái bình.
Nhớ xưa đương cuộc chiến chinh, Ông Nguyễn-trung-Trực tung hoành đã lâu.
Trước nơi Nhựt-tảo đốt tàu, Sau nơi Rạch-giá đánh nhầu hoản kinh.
Thương thay mấy lúc tang tành, Rồi ra Phú-quốc ẫn danh tìm tàng.
Lâm cơ túng thế phải hàng, Phép công xữ tại Kiên-giang bấy chầy.
Bại thành nào kể dở hay, Đã liều một chết ruỗi may cho rồi.
Cữa-dương sóng bỗ dập dồi, Cám người nghĩa khí gặp hồi điêu linh.
Cổ-công, Cổ-cúc, xanh quanh, Hòn-tràm giáp giái chổ ranh Xiêm là.
Đặt làm Thương-chánh một tòa, Quan quân dinh dảy cữa nhà phân minh.
Ghe buôn đến đó tạm đình, Ghé vào đóng thuế công bình rồi đi.
Tàu đò tháng đặng vài kỳ, Hãi tân một chổ phải thì thạnh sung.
Hà-tiên ít ruộng nhiều giồng, Người xài lúa gạo phải dùng các nơi.
Non nhơn nước trí thảnh thơi, Thơ bài ngâm vịnh thú chơi thanh nhàn.
Hải-nam tàu cũng năn sang, Bán qua mua lại hóa hàng thường xuyên.
Trường quan qui củ khuôn viên, Chữ nhu cũng có trường riêng của mình.