HƯNG-ĐẠO VƯƠNG

HỒI THỨ NHẤT

Nhân dịp biến, anh-hùng xuất hiện,
Ỷ thế to, đạo-khấu tung hoành.

Trải xem xưa nay nước Nam anh-hùng, hào-kiệt cũng nhiều, mà anh-hùng lại thường nhân lúc biến loạn mới hiển tiếng. Về thời trước như Ngô-Quyền, Đổng-thiên-vương, Bố-Cái-đại-vương, Đinh-tiên-hoàng, hai vì Trưng-Trắc, Trưng-Nhị, Lý-thường-Kiệt, tuy so với thế-giới thì chưa thấm vào đâu, nhưng trong một thời làm nên công nghiệp kinh thiên, động địa, cho dân trong nước được nhờ, thì cũng lưu được tiếng thơm về sau, khiến cho ai ai nghe thấy truyện, phải kính, phải trọng, phải yêu, phải mến, mà đúc nên được một cái hồn tỉnh tao trong cõi Nam-việt.

Từ khi những bậc anh-hùng ấy quá vãng, non nước trải bao thu, kế đến nhà Trần, mới lại có một tay đại anh-hùng xuất thế.

Triều nhà Trần, lòng giời mở vận Đông-a, tổ tích phát tại làng Tức-mặc (về huyện Mỹ-lộc, tỉnh Nam-định). Vua Thái-tôn thay ngôi nhà Lý, ngài là một vị minh quân, lại nhờ có văn võ trăm quan, hết lòng phò tá. Tự khi lên ngôi đến bấy giờ, ngoại 30 năm, bốn phương yên ổn, trăm họ vui vẻ thái bình.

Bấy giờ bên Tầu đang thời vua Lý-tôn nhà Tống. Nhà Tống lúc ấy đang vận suy nhược, mà vận nhà Nguyên sắp lên. Nhà Nguyên thì vốn là giống Mông-cổ. Vua Thế-tổ nhà Nguyên tên là Hốt-tất-Liệt, đang lúc cường thịnh binh hùng tướng dũng, nay đánh Kim, mai lấn Tống, chỉ chăm một việc mở mang bờ cõi.

Trong năm Đinh-tị, niên hiệu Nguyên-phong thứ bẩy (năm Bảo-hữu thứ năm nhà Tống, lịch tây 1257 sau Thiên-chúa giáng sinh), tướng Mông-cổ tên làm Ngột-lương-cáp-Thai (có bản dịch là Ô-lan-cáp-Đạt) nhân vừa bình định xong đất Đại-lý tức là đất Vân-nam) tháng tám kéo quân tràn sang phận Hưng-hóa nước Nam.

Chúa trại Qui-hóa tên là Hà-Khuất, vội vã sai người chạy ngựa phi báo về kinh-đô Thăng-long (tức Hà-nội).

Bữa sau vua Thái-Tôn khai chầu, trăm quan áo mũ lạy trước sân rồng, tung hô ba tiếng, rồi có Thái-sư tướng-quốc là Trần-thủ-Độ (chú vua) ra ban tâu rằng:

— Tâu bệ-hạ, nay có chúa trại Qui-hóa báo tin rằng quân Mông-cổ tràn vào phận Hưng-hóa, xin thánh chỉ phán cho làm sao?

Mặt rồng nổi giận, phán rằng:

— Mông-cổ vô cố dám lấn vào cõi ta, chẳng hay văn võ các ngươi, có ai ra phòng ngữ được cho trẫm không?

Có một vì vương bước ra tâu rằng:

— Muôn tâu bệ-hạ, thần xin cất quân ra phòng ngữ.

Vua nhác trông ra thấy một vì mắt phượng, môi son, trán cao, hàm én, oai phong dũng mạnh, tướng mạo khôi ngô, mới gần trạc 30 tuổi.

Vua cả mừng nói rằng:

— Nếu cháu có bụng can đảm như thế, vậy thì cho cháu cất quân đi, nhưng ra đó mà liệu thế không chống nổi, thì lập tức phi báo về cho trẫm biết.

Vị ấy mừng rỡ lạy tạ giở ra, các quan đều trông mặt thì là Hưng-đạo vương, ngài họ Trần húy Quốc-Tuấn, phụ thân ngài là An-sinh vương Liễu, tức là anh ruột vua Thái-tôn, mẫu thân là An-sinh vương phu-nhân, húy Nguyệt.

Khi trước, phu-nhân có mơ thấy một ông thần, tinh vàng, tướng ngọc, tự xưng là Thanh-tiên-đồng-tử, phụng mệnh Ngọc-hoàng, ban cho kiếm ấn và đủ tam tài, ngũ bảo, xuống xin đầu thai. Nhân thế có mang. Đến khi sinh ra ngài[1] gió thơm ngào ngạt, ánh sáng rực nhà. Cách hôm sau có người đạo-sĩ đến nói rằng: « Đêm qua tôi coi thiên văn, thấy một vì tướng tinh sa xuống ở đây, vậy tôi xin đến bái kiến. » An-sinh-vương đưa ngài ra cho đạo-sĩ xem. Người ấy xem xong, nói rằng: « Quí hóa! vương-tử mai sau tất yên được dân, cứu được đời, làm vẻ vang cho nhà-nước. »

Ngài đầy tuổi tôi đã biết nói. Lên sáu tuổi đã biết bày bát trận, làm thơ ngũ ngôn, thông minh khác chúng, An-sinh vương kén những người có tài dạy ngài học; ngài học đến đâu thông đến đấy, xem rộng các sách, mà học thì cốt trọng trung hiếu làm đầu. Lại kiêm tập cả nghề võ: thường bàn thao-lược với Chiêu-văn vương Nhật-Duật (con thứ sáu vua Thái-tôn), đêm ngày không biết chán, hai anh em rất tương-đắc với nhau. Có khi hầu vua giảng sách trong tòa Kinh-diên, giảng bàn nghĩa-lý, ứng đối như nước chẩy. Khi nào nhàn thì tập bắn. Lại thường đem lục-thao, tam-lược của Thái-công, Tử-phòng diễn làm trận đồ, để dạy các tướng. Ngài xử với người bề dưới thì hiền-từ, tiết-kiệm, khoan-dong, đó là tam-tài; dùng người thì kén người trí-mưu, nhân-hậu, dũng-lược, trung-thực, tin-cẩn, đó là ngũ-bảo, cho nên các tướng-sĩ nhiều người vui lòng theo với ngài.

Hưng-Đạo vương có bốn con, con cả là Hưng-võ vương Trần-quốc-Nghiễn, thứ hai là Hưng-hiếu vương Quốc-Uy, hai vị bấy giờ đã 15, 16 tuổi, giỏi nghề cung ngựa, sức lực hơn người. Con thứ ba là Hưng-nhượng vương Quốc-Tảng, con thứ tư là Hưng-trí vương Quốc-Nghê, hai vị này thì mới 12, 13 tuổi, còn đang học hành. Lại có một cô con gái tên là Trinh, và một cô con nuôi tên là Nguyên. Hai người tuy còn nhỏ, nhưng nhan-sắc, trông đã xinh-dòn, cũng đang học nghề nghiên bút.

Ngài lại có 5 tướng bộ-hạ cực giỏi: một người là Dã-Tượng, sức khỏe như voi; một người là Cao-Mang; một người là Đại-Hành; một người là Nguyễn-địa-Lô, ba người ấy cũng võ nghệ cao-cường, muôn người khôn địch. Một người họ Yết tên Kiêu tự là Hữu-Thế, người ở làng Hạ-bì tỉnh Hải-dương, khi trước thường vác cuốc ra bãi bể, thấy hai con trâu trắng ở dưới bể lên chọi nhau trên bãi cát, một hôm Yết-Kiêu ngồi dình cầm cuốc đánh vào đầu trâu, trâu chạy nhào cả xuống bể; Yết-Kiêu giơ cuốc xem thì có lông trâu dính đầu cuốc; Yết-Kiêu cho là của quí, nuốt ngay vào bụng, tự bấy giờ sức khỏe lạ thường, lội dưới nước như đi trên mặt đất.

Khi ấy Hưng-đạo vương phụng mệnh về nhà thu xếp đồ khí giới, chia quân làm hai mặt, sai Dã-Tượng đẫn một đạo đi đường bộ, Yết-Kiêu dẫn một đạo đi đường thủy, ngài dẫn hai con là Hưng-võ vương, Hưng-hiếu vương và các tướng đi sau. Tháng chín năm ấy, trống vang giời, cờ dợp đất, ba đạo quân tự thành Thăng-long kéo lên mặt Hưng-hóa.

Tướng tiên-phong là Dã-Tượng đến trước, cắm đồn lập trại, chia giữ các nơi, cách vài ba ngày, Hưng-đạo vương dẫn đại quân cũng đến nơi.

Ngột-lương-cáp-Thai nghe tin đại quân chia làm hai ngả kéo đến, liền sai phó tướng là Xích-tu-Tư dẫn quân đánh mặt thủy, còn mình thì dẫn quân đánh mặt bộ.

Hưng-đạo vương dàn trận, sai Dã-Tượng ra khiêu chiến. Dã-Tượng cắp đao phi ngựa ra trước trận, thét to lên rằng:

— Bớ quân khuyển-dương kia! sao dám vô-cố xâm phạm vào nước tao?

Ngột lương-cáp-Thai nổi giận, sai tên kiêu-tướng là Áo-lỗ-Xích múa thương ra địch. Hai tướng đấu nhau hơn 100 hợp, chưa rõ được thua, bỗng dưng trong trận Ngột-Lương trống nổi ầm ầm, quân Mông-cổ chia làm hai mặt tràn đến, như nước vỡ đê. Hưng-đạo vương vội vàng chia quân ra địch; nhưng quân mình ít, quân Mông-cổ thì nhiều, Hưng-đạo vương liệu bề cự không nổi rút quân chạy về Sơn-tây. Quân Mông-cổ thừa thế, đuổi tràn mãi xuống sông Thao mới đóng quân.

Yết-Kiêu nghe tin đại quân lui về Sơn-tây, cũng thu thuyền lui về. Xích-tu-Tư đuổi không kịp, liền hợp quân với Ngột-lương-cáp-Thai.

Hưng-đạo vương đóng quân ở Sơn-tây, sai người về kinh-đô cáo cấp.

Vua Thái-tôn được tin cả kinh, hội quần thần lại thương-nghị, rồi truyền chỉ ngự-giá thân-chinh.

Sáng hôm sau sai kén 10 chiếc thuyền rồng cực to, và 300 chiến thuyền. Vua dẫn quân Thánh-dực (tức là quân Ngự-lâm) làm trung-quân; Thái-sư là Trần-thủ-Độ và Tướng-quân là Nguyễn-Khoái dẫn tả-quân, Thái-úy là Trần-nhật-Hiệu và Tướng-quân là Trần-bình-Trọng dẫn hữu-quân. Mỗi cánh dẫn 100 chiến thuyền, 3.000 quân-sĩ. Lê-phụ-Trần dẫn 20 chiến thuyền làm tiên-phong.

Thượng tuần tháng chạp, chiến thuyền kéo tự sông Phú-lương (tức sông Nhị-hà) lên mạn sông Thao, đem quân lên bộ dàn trận.

Ngột-lương-cáp-Thai dẫn quân ra đánh. Vua xông pha mũi tên hòn đạn, đốc thúc các tướng vào đánh. Tướng tiên-phong là Lê-phụ-Trần, một thương một ngựa, xông thẳng vào trận giặc đánh giết, ngựa đến đâu, quân Mông-cổ rẽ ra đến đấy. Tuy vậy quân Mông-cổ bấy giờ đang mạnh thế quá, các tướng đánh cũng hăng, nhưng vẫn kém thế. Một hồi lâu quan quân dần dần núng thế phải lui. Vua dẫn quân xuống thuyền chạy về, sai Lê-phụ-Trần đi đoạn hậu, giặc cũng kéo xuống thuyền đuổi theo, tên bắn ra như mưa, Phụ-Trần cầm một mảnh ván thuyền đỡ tên, thuyền vua chạy được thoát.

Hưng-đạo vương trông thấy thế giặc to quá, liệu bề giữ thành không nổi cũng rút quân về.

Quan quân lui về đến đâu, thì giặc thừa thế, đuổi tràn đến đấy. Dần dần tràn xuống đến sông Phú-lương. Ngột-lương-cáp-Thai vào phá kinh-thành, thấy ba người sứ-giả, bị giam trong ngục, người nào cũng trói bằng chạc tre, lẳn vào trong thịt. Nguyên là sứ của Mông-cổ, sai đến dụ hàng, mà vua không nghe, giam lại ở đấy. Quân Mông-cổ cổi trói cho ba người ấy, thì một người bị đau mà chết.

Ngột-lương-cáp-Thai giận lắm nghiến răng mà nói rằng:

— Ái chả! ai ngờ quân Nam-việt độc dữ làm vậy, xưa nay hai nước đánh nhau, không giết đến sứ-giả bao giờ, mà nỡ xử tệ ác thế?

Lập tức truyền quân-sĩ, cho làm cỏ nhân dân trong thành. Thương hại thay! già trẻ trăm họ bấy giờ, tóc bạc, đầu xanh, làm gì nên tội, chẳng may gặp phải quân hung-ác, giận cá chém thớt, nó biết trách người xử tệ, mà nó xử tệ lại gấp trăm, gấp nghìn! Xưa nay an-nghiệp sung-sướng nhường nào, mà bỗng dưng người bị đâm, kẻ bị chém, người già, con trẻ cũng mắc phải tai nạn, cửa nhà tàn phá, vườn ruộng tan hoang, nói ra xót ruột đau lòng, ai là không muốn sả thây moi ruột những quân tàn ác ấy.

Quân Mông-cổ làm cho phũ tay tàn ác, rồi lại tiến quân đuổi theo đến bến Đông-bộ-đầu (thuộc huyện Thượng-phúc, Hà-nội). Vua lui quân về sông Thiên-mạc (thuộc về phủ Lý-nhân).

Hưng-đạo vương bấy giờ tuy được dự cầm quân, nhưng quyền chính còn do tự thái-sư Trần-thủ-Độ, và thái-úy Trần-nhật-Hiệu. Thủ-Độ cũng là một tay tài cán giỏi, hết lòng lo việc nước. Nhật-Hiệu thì tiếng là hoàng-thân, cầm quyền triều-đình, mà trí mưu thì kém, lâm lúc nguy hiểm không có tài ứng biến.

Khi ấy vua thấy quân Mông-cổ mạnh thế, quân mình đã nguy núng đến nơi. Ngự thuyền đến hỏi Nhật-Hiệu xem có kế gì không. Nhật-Hiệu đang ngồi đầu thuyền, thấy vua hỏi, không biết nghĩ ra làm sao, mới cầm cái bơi chèo viết xuống nước hai chữ « Nhập Tống », là có ý khuyên vua chạy sang Tống.

Vua lại hỏi:

— Thế quân Tinh-cương[2] ở đâu?

— Tâu bệ-hạ, đòi chúng nó không đến nữa.

Vua bực mình, quay thuyền đến hỏi Trần-thủ-Độ. Thủ-Độ thì gan vẫn vững, mà ứng biến lại nhanh, liền tâu rằng:

— Muôn tâu bệ-hạ, đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ-hạ đừng lo!

Vua thấy nói cứng cỏi, bấy giờ cũng hơi vững dạ,

Đó là:

Chỉ vị bền lòng lo việc nước,
Mới hay phá giặc lập công to.

Chưa biết sự thể về sau thế nào, sẽ xem hồi sau phân giải.



  1. Xét trong hành-trạng lục, thì nói ngài sinh ngày mồng mười tháng chạp năm Nhâm-Tí niên hiệu Nguyên-phong thứ hai. Nhưng cứ so với Sử-ký thì chắc là sai. Vì năm Nguyên-phong thứ bẩy, ngài đã phụng mệnh đi đánh giặc, không có nhẽ mới 5 tuổi. Vả lại ngài mất năm Canh-Tí, thời vua Anh-tôn, niên hiệu Hưng-long thứ tám, thì đã ngoài 70 tuổi. Cứ như hành-trạng, thì mới ngoài 40 tuổi, cho nên biết là sai.
  2. Tinh-cương là tên phong ấp của Trần-nhật-Hiệu.