Hán văn độc tu 1936-1937/Bài học thứ 2
I. Học tiếng một (Những tiếng noms từ 3 nét đến 7 nét)
sửaChữ Hán | Đọc | Nghĩa |
---|---|---|
川 | Xuyên | Sông ngòi |
地 | Địa | Đất |
田 | Điền | Ruộng |
禾 | Hòa | Cây lúa |
米 | Mễ | Gạo |
瓜 | Qua | (các thứ) Dưa |
豆 | Đậu | (các thứ) Đậu |
犬 | Khuyển | Chó |
牛 | Ngưu | Bò |
羊 | Dương | Dê |
豕 | Thỉ | Lợn, heo |
爪 | Trảo | Móng; vuốt |
牙 | Nha | Răng; nanh |
毛 | Mao | Lông |
羽 | Vũ, võ | Lông (nơi cánh) |
皮 | Bì | Da |
肉 | Nhục | Thịt |
角 | Giác, giốc | Sừng |
血 | Huyết | Máu |
巾 | Cân | Khăn |
衣 | Y | Áo |
車 | Xa | Xe |
舟 | Chu, châu | Ghe, thuyền |
身 | Thân | Mình |
足 | Túc | Chân |
耳 | Nhĩ | Tai |
目 | Mục | Mắt |
舌 | Thiệt | Lưỡi |
形 | Hình | Hình |
色 | Sắc | Sắc |
II. Cắt nghĩa thêm
sửa川 Xuyên là tiếng kêu chung hết thảy các sông ngòi, nơi có nước rạch đất ra mà chảy thường. Vậy như những cái hồ (lac) dầu lớn mấy cũng không gọi là xuyên 川 được.
Xuyên 川 vốn viết là ⼮ và nó làm đầu bộ, cho nên khi muốn tra chữ 川 thì phải tìm ở bộ ⼮ (bộ Xuyên).
地 Địa khác với 土 thổ, hãy xem lại chữ thổ 土 nơi bài học thứ nhất.
瓜 Qua là tiếng kêu chung các thứ dưa, và loại bầu bí cũng thuộc vào đó. (Khéo kẻo lầm với chữ 爪).
犬 Khuyển cũng làm đầu bộ, kêu bằng bộ Khuyển. Khi ở bên tả chữ, biến hình thành ra ⺨.
牛 Ngưu, ta thường cắt nghĩa là trâu, là lầm. Theo sách cho đúng thì ngưu 牛 là bò; còn thủy ngưu 水 牛 mới là trâu. Kêu 水 牛 thủy ngưu, vì con trâu có cái đặc tánh giỏi lội nước.
牛 Ngưu cũng làm đầu bộ, kêu bằng bộ Ngưu. Khi ở bên tả chữ, biến hình thành ra 牜.
爪 Trảo là móng, khi chỉ về của người, như móng tay; là vuốt, khi chỉ về của vật, như vuốt cọp.
爪 Trảo cũng làm đầu bộ, kêu bằng bộ Trảo. Khi ở trên đầu chữ, biến hình thành ra ⺤.
牙 Nha là răng, khi chỉ về của người; là nanh, khi chỉ về của vật. Nha 牙 cũng là cái ngà của con voi nữa; ngà voi kêu bằng tượng nha 象 牙.
牙 Nha cũng làm đầu bộ.
毛 Mao là lông nơi mình con thú, tiếng Pháp kêu là poil. 羽 Vũ là lông nơi cánh con chim, tiếng Pháp là plume.
毛 Mao cũng làm đầu bộ.
肉 Nhục cũng làm đầu bộ. Khi ở dưới chữ hoặc bên tả chữ, biến hình thành ra ⺼ . (Khéo kẻo lầm với chữ 月 nguyệt).
角 Giác, 血 Huyết, 巾 Cân, ba chữ cùng làm đầu bộ cả.
衣 Y cũng làm đầu bộ. Khi ở bên tả chữ, biến hình thành ra 衤 , kêu bằng Y rách.
車 Xa, 舟 Châu, 身 Thân, ba chữ cũng làm đầu bộ.
足 Túc cũng làm đầu bộ, kêu bằng bộ Túc. Khi ở bên tả chữ, biến hình thành ra ⻊ kêu bằng Túc xóc.
耳 Nhĩ 目 Mục 舌 Thiệt 色 Sắc cũng làm đầu bộ.
II. Văn pháp
sửaNom đơn và nom kép
Tiếng nom của chữ Hán có đơn có kép. Đơn là mỗi chữ một nghĩa, như sáu chục chữ trong hai bài chúng ta đã học đây, mỗi chữ chỉ nghĩa một sự vật gì. Còn kép là nối hai chữ để chỉ ra một nghĩa (hoặc có khi nối đến ba chữ).
Lệ như: 火 là nom đơn, 山 là nom đơn, 火 山 là nom kép (hỏa sơn là núi lửa volcain).
Khi nối hai nom làm một để chỉ ra một nghĩa thì phải kể như một chữ. Vậy hỏa sơn phải kể như một chữ.
Lại như 夫 子 là thầy, 天 子 là vua của các vua, 夫 人 là bà (madamme), 女 子 là con gái, 女 士 là con gái có học... đều phải kể như một chữ cả.
Người ta làm thành (former) những nom kép bởi hai cách: một là theo thói quen từ đời xưa; một là dùng hai chữ có ý nghĩa quan hệ với nhau mà ráp lại.
Như phu tử 夫 子: phu 夫 là chồng, tử 子 là con, chẳng có ý nghĩa gì dính dấp với một bậc người đáng tôn trọng mà ta kêu bằng thầy hết. Nhưng từ xưa có thói quen kêu như vậy rồi dùng luôn đến bây giờ, hoặc giả hồi đầu có ý nghĩa thế nào đó mà bây giờ mất hẳn đi, không truy ra được.
Phu nhân 夫 人 cũng vậy, 夫 là chồng, 人 là người, vốn chẳng có ý nghĩa gì về người đàn bà làm vợ hết. Nhưng theo thói quen, đời xưa dùng chỉ về vợ quan lớn, đời nay dùng chỉ về vợ mọi người. Những chữ như vậy ít lắm; phần nhiều nom kép làm thành bởi cách thứ hai.
Như 天 子 thiên tử chỉ nghĩa vua, có ý nói vua là con của Trời, tỏ ra là tôn quý lại thân thiết với Trời nữa.
女 子 nữ tử: chữ 子 tử chỉ nghĩa con (enfant), còn chữ 女 nữ chỉ nghĩa gái để phân biệt với trai.
女 士 nữ sĩ: chữ 士 sĩ chỉ nghĩa người có học, nhưng nó thường chỉ riêng về bên nam mà thôi, nay muốn chỉ rõ là người con gái có học nên phải để lên trên nó một chữ nữ 女.
Ba nom kép mới kể đó đều làm thành theo cách thứ hai: lấy hai chữ có ý nghĩa quan hệ với nhau mà ráp lại.
Chẳng những nom commum có đơn có kép mà nom propre cũng có đơn có kép. Nom propre đơn như 宋 Tống là nước Tống, 王 Vương là họ Vương; kép như 文 王 Văn Vương là vua Văn Vương, 孔 子 Khổng Tử là đức Khổng Tử.
Trong chữ Hán, khi viết một nom propre không có làm dấu gì để khác với nom commun cả. Nhưng theo lối tiêu điểm mới của người Tàu đời nay, khi gặp nom propre người ta có sổ dọc theo một số ở bên tả hoặc bên hữu chữ, nhất là trong khi in sách.
III. Học tiếng đôi
sửaTheo bài văn pháp trên đó, đã biết nom kép là gì rồi, vậy nay hãy học thêm cho biết một ít nom kép ấy, mà cũng lấy ra từ sáu chục chữ đã học rồi kia. Kêu bằng học tiếng đôi vì nom kép ghép bởi hai tiếng.
友 人 : Người bạn.
女 工 : Công việc đàn bà con gái làm.
火 山 : Núi lửa. (Núi có phun ra lửa).
天 井 : Chỗ miếng đất trống thấy trời nơi hai cái lầu − lầu trước và lầu sau − cách nhau. (Chú ý: không cắt nghĩa là cái "giếng trời" được).
女 兄 : Chị (Anh gái tức là chị).
手 巾 : Khăn tay (khăn cầm tay).
手 工 : Việc làm bằng tay.
力 士 : Người có sức mạnh.
才 子: Theo nghĩa nguyên là người học giỏi, có tài riêng về văn chương. Còn theo nghĩa người mình hiểu thì là người có tài đặc biệt về một mỹ thuật gì, như đờn, vẽ.
天 工 : Thợ trời. Chỉ nghĩa Trời tạo thành muôn vật một cách khéo cũng như tay thợ vậy.
石 田 : Ruộng có những đá sỏi, không cày cấy được.
水 母 : Con sứa.
角 巾 : Khăn đầu rìu (Bịt khăn cho hai đầu mối xừng lên như hai cái sừng, cho nên gọi là giác cân 角 巾).
水 田 : Ruộng có nước; ruộng sâu.
天 足 : Cái chưn con gái để tự nhiên. (Phụ nữ Tàu thuở trước đều bó chưn; bây giờ không bó, để tự nhiên, kêu cái chưn tự nhiên là thiên túc 天 足).
木 工 : Thợ mộc
石 女 : Người con gái mà cái sanh thực khí phản thường, không giao tiếp và sanh dục được.
士 子 : Học trò
土 人 : Người bản xứ
木 瓜 : Tên một vị thuốc bắc
天 水 : Tên một huyện bên Tàu.
V. Cách học bài thứ hai nầy
sửaBài nầy đại khái cũng học như cách học bài thứ nhất. Ba chục chữ đó cũng phải theo phép đếm nét và phép viết như đã dạy trong bài trước mà học cho thuộc lòng.
Hôm nay duy có bài văn pháp là trọng yếu hơn hết. Không cần đọc thuộc lòng. Nhưng phải hiểu thật đúng và nhớ gắt những cái đại cương. Bởi vì những bài văn pháp trước sau liên lạc với nhau, có hiểu và nhớ bài trước thì bài sau mới dễ học.
Muốn cho nhớ gắt, hãy làm theo cách nầy:
Sau khi đọc đi đọc lại (không những, coi, mà phải đọc, vì có đọc lên mới vỡ nghĩa) bài văn pháp nầy và hiểu thật lung rồi, thì gấp tập báo lại mà tự mình theo đó mà làm lấy một bổn đề cương (résumé), chép vào cuốn sổ tay của mình. Đoạn lại mở ra mà so sánh, nếu sai thì sửa. Khi nào bổn đề cương được hoàn toàn thì cứ nhớ nội đó là đủ.
Hôm nay thêm học tiếng đôi, 30 tiếng mà thành ra đến 40 chữ. Tuy vậy đều là những chữ học rồi cả, không khó sự nhớ chữ, chỉ lo nhớ nghĩa mà thôi.
Trong khi học tiếng đôi cũng cần phải tập viết hoài cho càng nhớ gắt mặt chữ hơn nữa.