Cao đẳng quốc dân của Phan Bội Châu
Chương thứ nhứt
CHƯƠNG THỨ NHỨT
Nghĩa hai chữ quốc-dân

Xưa nay người ta thường nói đến nước, thì trước hết kể vua, thứ nữa là quan, mà dân thì không bao giờ kể đến. Nhưng đến đời bây giờ thì khác thế. Bên Âu, bên Mỷ cho đến nước Nhựt-Bổn, nước Trung-Hoa ở Á-đông, họ không nói đến nước thì thôi, hoặc nói đến nước thì tất khắc nói đến dân; có tai, tai nghe chữ quốc-dân, có miệng, miệng đọc chữ quốc-dân, có mắt, mắt thấy chữ quốc-dân. Quốc-dân! Quốc-dân! Hai chữ đó ngó như hình cha-cha mẹ-mẹ, không bao giờ quên ở trong lòng.

Gần mấy năm đây, làn sóng Âu-Mỷ tràng vào nước ta, mà người bảo-hộ ta lại là nước dân-chủ, người ta trông có dân-chủ, mà hai chữ quốc-dân mới phảng-phất ở trong óc mình, nhưng miệng đọc hai chữ quốc-dân mà hỏi nghĩa chữ quốc-dân là làm sao; chắc không ai trả lời được.

Chữ Quốc vì sao mà liền với chữ Dân, chữ Dân vì sao mà dính với chữ Quốc? Muốn trả lời câu hỏi đó tất phải theo lịch-sử mà nói ra mới được.

Sử nước ta đến đời Đường-Nghiêu mới có hai chữ Việt-Thường, đến đời, nhà Hán mới có hai chữ Giao-Chỉ, đến đời nhà Đường mới có hai chữ Yên-Nam; vậy thì từ đời nhà Đường-Nghiêu về trước, đã có gì nên nước đâu. Núi rậm rừng hoan, đồng không mông quanh, bốn mặt chim kêu vượn hót, một vùng nước bạc đất vàng; xó nầy năm ba chú Mọi, góc kia sáu bãy anh Lào, kể bộ-lạc cũng chưa nên gì, huống gì là nước. Vì ai gây dựng, vì ai mở mang, ai dọn đường, ai trổ lối, ai xẻ núi ai đốt rừng; bổng chốc núi rậm hóa nên thôn-cư, bổng chốc mà đồng hoan gây nên thành-thị, đó chẳng phải là nghìn vạn ức những người tổ-tiên cao tằng ta làm nên đó ru? Huốn hồ Quảng-Bình dĩ nam, Cao-Man dĩ bắc, xưa vẩn có đất, mà đất gì của ta đâu; xưa vẩn có người, mà người gì nòi giống ta đâu.

Nào Lâm-Ấp, nào Chiếm-Thành, nào Mên, nào Lạp, nếu không dân ta xưa dắc đoàn kéo đội, từ Bắc vào Nam, trải gió dầm mưa, trèo non vượt bể, khua nòi Chiêm đuổi bầy Lạp, hốt mấy nghìn dặm non sông mà bỏ vào trong túi mình thì có đồ gấm-vóc như sau nầy, thế nào chúng ta trông thấy được a?

Suy cho thấu lẽ ấy, mới biết rằng quốc là của dân ta, dân là ông chủ tiên-chiếm của quốc ta. xưa tôi làm quyển Hải ngoại huyết-thư” mà ông Lê-Đại dịch, đã có câu rằng:

Nghìn muôn ức triệu người chung-hiệp,
Gầy dựng nên cơ-nghiệp nước nhà;
Người dân ta nước dân ta,
Dân là dân nước nước là nước dân.

Đọc mấy câu ấy thì nghĩa hai chữ quốc-dân cũng đả rỏ lắm.

Anh em ta thử nghỉ: trên dưới bốn ngàn năm, trong ngoài ba mươi vạn dặm, biết bao giây máu hột mủ, tuôn đổ ra cung cấp cho nước đó, có một giọt nào là không phải của dân ta đâu? Biết bao lủ trước đoàn sau, dắc dìu nhau mà kinh-dinh cho nước đó, có một người nào là không phải dân, ta đâu! Vì vậy nếu không dân thì ai làm nên nước, nếu không nước thì quí gì dân.

Linh-hồn nước là đâu? Chắc là dân đó!
Khu-xác dân ở đâu? Chắc là nước đó.

Quốc tức dân, dân tức quốc, hai chữ quốc-dân không thể rời nhau được. Nghĩa hai chữ quốc-dân là thế.