NGUYỄN KHUYẾN

99. CỐI XAY

Khen con tạo-hóa cũng tài thay,
Khéo tạc nên hình cái cối xay.
Tiếng nói ầm ầm như sấm động,

Miệng cười rằng-rặc tựa mưa bay.
Lưng đeo đai bạc trăm vành nặng,
Dạ chứa lòng vàng một ngõng ngay.
Lại có hai tai thông sáng cả,
Gác ngoài danh-lợi lắc đầu quay,

100. CÁI HỎA-LÒ

Ngẫm xem hòn đất thế mà to,
Đủ cả âm-dương đúc một lò.
Thế vững tam sơn chăm việc nước,
Lòng thông thất khiếu sạch màu tro.
Mặc người than củi đà không lụy,
Sẵn khách thang trà chẳng có lo.
Khắp cả bốn mùa dư kẻ quạt,
Phong-lưu trời đất đã dành cho.

101. CẢM HỨNG

I

Tháng ngày thấm-thoắt tựa chim bay,
Ông ngẫm mình ông nghĩ cũng hay.
Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ,
Răng long ngày trước hãy còn đây.
Câu thơ được chửa, thưa rằng được.
Chén rượu say rồi nói chửa say.
Kẻ ở trên đời lo-lắng cả,
Nghĩ ra ông sợ cái ông này.

II

Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng-nhàng.
Cờ đương dở cuộc toan lầm nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.

Hé miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.

102. LỤT

Tỵ trước, tỵ này, chục lẻ ba,
Thuận dòng nước cũ lại bao-la.
Bóng thuyền thấp-thoáng đờn trên vách.
Tiếng sóng long-bong lượn trước nhà.
Bắc bậc người còn chờ chúa đến,
Đóng bè ta phải rước vua ra.
Sửa-sang việc nước cho yên-ổn,
Trời đất sinh ta ắt có ta.

CHÚ-THÍCH.— Chúa là chúa Hà-bá.— Vua là vua bếp.

103. CON VỊT

Cũng đủ lông xương, cũng đủ da,
Chẳng ra ngan ngỗng, chẳng ra gà.
Co chân vùng-vẫy miền trăng bạc,
Nghểnh cổ ăn-chơi chốn hải hà.
Đội đức càn-khôn sinh trứng mãi,
Nhờ lò tạo-hóa nở con ra.
Tiếng tuy rằng thấp, gan không bé,
Sấm sét ù-ầm cũng chẳng ra.

104. THU ẨM

Năm gian lều cỏ thấp le-te,
Ngõ tối đêm khuya đóm lập-loè.
Lưng giạu phất-phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng-lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không viền cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.

105. THU ĐIẾU

Ao thu lạnh-lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo-teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Từng mây lơ-lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh-co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp đọng dưới chân bèo.

106. THU VỊNH

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy tầng trước giạu, hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không, ngỗng nước nào.
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào.

CHÚ-THÍCH.— Ông Đào là Đào Tiềm đời Tấn.

107. VỊNH KIỀU

Kiều-nhi giấc mộng bật nực cười,
Tỉnh dậy xuân xanh quá nửa rồi.
Số kiếp bởi đâu mà lận-đận,
Sắc tài cho lắm cũng lôi-thôi.
Cành hoa vườn Thúy duyên còn bén,
Ngọn nước sông Tiền nợ chẳng xuôi.

Không trách chàng Kim đeo-đẳng mãi,
Khăng khăng vớt lấy một phần đuôi.

108. THẰNG BÁN TƠ TRONG TRUYỆN KIỀU

Thằng bán tơ kia giở mối ra,
Làm cho bận đến cụ Viên già.
Muốn xong việc ấy, ba trăm lạng,
Không có sau này, một chiếc thoa.
Nổi tiếng mượn màu son phấn mụ,
Đem thân chuộc lấy tội tình cha.
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ,
Đời trước làm quan cũng thế a?

CHÚ-THÍCH.— Có bản chép như sau này.

Thằng bán tơ kia dở dói ra,
...........,
Muốn êm phải biện ba trăm lạng,
Khéo xếp nên liều một chiếc hoa.
Đón khách mượn màu son phấn mụ,
Bán mình chuộc lấy tội tình cha,
.............
.............

109. CHƠI CHỢ TRỜI CHÙA THẦY

Hóa-công xây-đắp tự bao đời.
Nọ cảnh Sài-sơn có chợ trời,
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đón,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bày hàng hoa quả tư mùa sẵn,
Mở phố giang-sơn bốn mặt ngồi.
Bán lợi mua danh nào những kẻ,
Thử lên mà-cả một vài lời.

CHÚ-THÍCH.— Bài này có người cho là tác-phẩm của Hồ Xuân Hương, nhưng nghe khẩu-khí không phải là thơ cô Hồ.

110. CHƠI NÚI AN-LÃO

Mặt nước mênh-mông nổi một hòn,
Núi già nhưng tiếng vẫn là non.
Mảnh cây thơ-thớt đầu như trọc,
Ghềnh đá long-lay ngấn chửa mòn.
Một lá về đâu xa thăm thẳm,
Nghìn làng trông xuống bé con con.
Dầu già, đã hẵn hơn ta chửa,
Chống gậy lên cao, bước chửa chồn.

111. NGẪU HỨNG

Nghĩ đời mà lại ngán cho đời,
Co-cóp làm sao được với trời.
Chép miệng lớn đầu to cái dại,
Phờ râu chịu đấm mất phần xôi.
Được thua hơn kém lưng hồ rượu,
Hay dở khen chê một trận cười.
Dựa gối bên mành toan hóa bướm,
Gió thu lạnh-lẽo lá vông rơi.

112. BẠN ĐẾN NHÀ CHƠI

Đã bấy lâu nay bác đến nhà,
Trẻ thì đi vắng, chợ thì xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải mới ra cây, cà chưa nụ,
Bầu vừa rụng dốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.

113. CHƠI NÚI LONG-ĐỘI

Hai mươi năm cũ lại lên đây.
Phong-cảnh nhà chiền vẫn chửa khuây.

Chiếc bóng lưng trời am các quạnh,
Mảnh bia thủa trước bể dâu đầy.
Le-te nghìn xóm quanh ba mặt,
Lố-nhố muôn ông lẩu một thầy.
Nghĩ lại bực cho dòng nước chảy,
Đi đâu mà chảy cả đêm ngày.

114. CUỐC KÊU CẢM-HỨNG

Khắc-khoải sầu đưa giọng lẳng-lơ,
Đấy hồn Thục-đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn năm mơ?
Ban đêm ròng-rã kêu ai đó?
Dục khách giang-hồ dạ ngẩn-ngơ.

CHÚ-THÍCH.— Theo điển cũ nói Đỗ Vũ, vua nước Thục ngày xưa bỏ nước đi, rồi sau chết vì nhớ nước mà hóa ra con cuốc, cứ đến mùa hè thì thường kêu suốt đêm, kêu mãi dạc đi, máu ra miệng rồi chết, biến mất xác.

115. CHƠI NÚI NON-NƯỚC

Chơm-chởm trên sông đá một hòn,
Nước trôi, sóng vỗ biết hao mòn.
Phơ đầu đã tự đời Bàn-cổ,
Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con.
Rừng cúc tiền triều trơ mốc thếch,
Hòn câu Thái-phó tảng rêu tròn.
Trải bao trăng gió xuân già-giặn,
Trời dẫu già những núi van non.

CHÚ-THÍCH.— Thái-phó đây là nói Trương Hán-Siêu làm quan đến chức Thái-phó đời nhà Trần.

116. NHỚ CẢNH CHÙA ĐỌI

Già yếu, xa xôi bấy đến nay,
Làng chơi loáng-thoáng lại buồn thay.
Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá,
Sư cụ nằm chung với khói mây.
Dặm thế ngõ đâu rừng trúc ấy,
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây.
Chuông trưa vắng tiếng, người không biết,
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.

117. VÀO HÈ

Ai xui con cuốc gọi vào hè,
Cái nóng nung người nóng nóng ghê.
Ngõ trước vườn sau um những cỏ,
Vàng phai thắm nhạt ngán cho huê.
Đầu cành kiếm bạn oanh xao-xác,
Trong tối đua bay đóm lập-loè.
Mong được nồm nam cơn gió thổi,
Đàn ta, ta gảy khúc Nam nghe.

CHÚ-THÍCH.— Khúc nam là khúc Nam-huân của vua Thuấn.

118. ÔNG NGHÈ THÁNG TÁM

Cũng cờ cũng biển cũng cân-đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp-bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn-khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa-danh ấy mới hời.
Ghế tréo, lọng xanh, ngồi bảnh-choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.

CHÚ-THÍCH.— Tục ở ngoài Bắc, đến tiết Trung-thu, rằm tháng tám, người ta làm đồ chơi cho trẻ-em, thường làm ông tiến-sĩ bằng giấy. Tác-giả lấy chuyện ấy làm đề.