Việt Nam sử lược/Quyển II/1971/Phần V/Chương VIII

CHƯƠNG VIII

GIẶC-GIÃ Ở TRONG NƯỚC

  1. Việc rối-loạn trong nước
  2. Giặc Tam-đường
  3. Giặc châu-chấu
  4. Giặc tên Phụng
  5. Sự phản-nghịch ở Kinh-thành
  6. Giặc Khách ở Bắc-kỳ

1. VIỆC RỐI-LOẠN TRONG NƯỚC. Vua Dực-tông vốn là ông vua có lòng chăm-chỉ về việc trị dân, ngay từ năm canh-tuất (1850), là năm Tự-đức thứ 3, ngài đã sai ông Nguyễn tri Phương 阮 知 方 làm Kinh-lược đại-sứ 6 tỉnh Nam-kỳ; ông Phan thanh Giản 潘 清 簡 làm Kinh-lược đại-sứ Bình-định, Phú-yên, Khánh-hòa và Bình-thuận; ông Nguyễn đăng Giai 阮 登 階 làm Kinh-lược đại-sứ Hà-tĩnh, Nghệ-an và Thanh-hóa. Các ông ấy đi khám-xét công-việc các quan-lại và sự làm-ăn của dân-gian, có điều gì hay dở phải sớ tâu về cho vua biết.

Tuy vậy mặc lòng, không có đời nào lắm giặc-giã bằng đời ngài làm vua. Chỉ được vài ba năm đầu thì còn có hơi yên-trị, còn từ năm tân-hợi (1851) là năm Tự-đức thứ 4 trở đi, thì càng ngày càng nhiều giặc. Mà nhất là đất Bắc-kỳ có nhiều giặc hơn cả, bởi vì đất Bắc-kỳ là đất của nhà Lê cũ, dân-tình cũng còn có nhiều người tưởng-nhớ đến tiền-triều, nên chi những người muốn làm loạn, hoặc tự nhận là dòng dõi nhà Lê, hoặc tìm một người nào giả nhận dòng dõi nhà Lê, rồi tôn lên làm minh-chủ 盟 主 để lấy cớ mà khởi sự. Lại nhân lúc bấy giờ bên Tàu có giặc Thái-bình nổi lên đánh nhà Thanh, đến khi giặc ấy tan thì dư-đảng chạy tràn sang nước ta cướp phá ở mạn thượng-du. Nào giặc khách, nào giặc ta, quan quân cứ phải đi đánh dẹp luôn. Ở trong nước thì thỉnh-thoảng lại có tai-biến, như nước lụt, đê vỡ, v.v. Ở Hưng-yên, đê Văn-giang vỡ 18 năm liền, cả huyện Văn-giang thành ra bãi cát bỏ hoang, dân-gian đói-khổ, nghề-nghiệp không có, cho nên người đi làm giặc càng ngày càng nhiều vậy.

2. GIẶC TAM-ĐƯỜNG. Năm tân hợi (1851) là năm Tự-đức thứ 4, có giặc khách là bọn Quảng nghĩa Đường 廣 義 堂, Lục thắng Đường 六 勝 堂, Đức thắng Đường 德 勝 堂, v.v... tục gọi là giặc Tam-đường 三 堂, quấy-nhiễu ở mặt Thái-nguyên, vua sai ông Nguyễn đăng Giai 阮 登 階 ra kinh-lược Bắc-kỳ. Ông ấy dùng cách khôn-khéo dụ được chúng nó về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên một độ. Nhưng đến cuối năm giáp-dần (1854) là năm Tự-đức thứ 7, Nguyễn đăng Giai mất, đất Bắc-kỳ lại có loạn.

3. GIẶC CHÂU-CHẤU. Năm Tự-đức thứ 7 (1854), ở tỉnh Sơn-tây có một bọn người đem Lê duy Cự 黎 維 柜 là dòng dõi nhà Lê ra lập lên làm minh-chủ để khởi sự đánh nhà Nguyễn. Lúc ấy có Cao bá Quát 高 伯 适, người làng Phú-thụy, huyện Gia-lâm, Tỉnh Bắc-ninh, thi đỗ cử-nhân, ra làm quan, được bổ chức giáo-thụ phủ Quốc-oai (Sơn-tây). Cao bá Quát có tiếng là người văn-học giỏi ở Bắc-kỳ, mà cứ bị quan trên đè-nén, cho nên bức chí, bỏ quan về đi dạy học, rồi theo bọn ấy xưng là quốc-sư để dấy loạn ở vùng Sơn-tây và Hà-nội. Tháng chạp năm ấy quan phó Lĩnh-binh tỉnh Sơn-tây là Lê Thuận đi đánh bắt được Cao bá Quát đem về chém tại làng.

Nhân vì mùa tháng năm ấy ở vùng tỉnh Bắc-ninh và Sơn-tây có nhiều châu-chấu ra phá hại mất cả mùa-màng, rồi đến cuối năm lại có giặc ấy, cho nên người thời bấy giờ gọi là giặc châu-chấu.

Cao bá Quát chết đi rồi, Lê duy Cự còn quấy-rối đến mấy năm sau mới dẹp yên được. Từ đó trở đi, không năm nào là năm không có giặc, nhưng kiệt-hiệt hơn cả là có giặc tên Phụng và giặc Khách ở mạn Thượng-du.

4. GIẶC TÊN PHỤNG. Năm tân-dậu (1861), quân nước Pháp và nước I-pha-nho sang đánh Quảng-nam, có mấy người ở Bắc-kỳ theo vào làm lính mộ. Trong ấy có tên Tạ văn Phụng 謝 文 奉, trước đã theo giáo-sĩ ra ngoại-quốc đi học đạo, sau lại theo trung-tướng Charner về đánh Quảng-nam.

Đến tháng chạp, thì tên Phụng ra Bắc-kỳ, mạo xưng là Lê duy Minh 黎 維 明 dòng dõi nhà Lê 黎, rồi tự xưng làm minh-chủ, cùng với một người đạo-trưởng tên là Trường 長 làm mưu-chủ, và tên Ước 約, tên Độ 度 dấy binh ở Quảng-yên. Đảng tên Phụng đem quân giặc Khách ở ngoài bể vào đánh lấy phủ Hải-ninh, rồi lại thông với giặc Khách và giặc ta ở các tỉnh, để làm loạn ở Bắc-kỳ.

Tháng ba năm nhâm-tuất (1862), ở Bắc-ninh có tên cai-tổng Nguyễn văn Thịnh 阮 文 盛 (tục gọi là cai-tổng Vàng) xưng làm nguyên-súy, lập tên Uẩn 褞 mạo xưng là con cháu nhà Lê, lên làm minh-chủ, rồi nhập đảng với tên Phụng, đem binh đi đánh phủ Lạng-giang, huyện Yên-dũng, và vây thành Bắc-ninh.

Bấy giờ quan bố-chính tỉnh Hà-nội là Nguyễn khắc Thuật 阮 克 述, quan bố-chính tỉnh Sơn-tây là Lê Dụ 黎 裕 và quan phó lĩnh-binh tỉnh Hưng-yên là Vũ Tảo 武 早 đem quân ba tỉnh về đánh giải vây cho tỉnh Bắc. Vũ Tảo đánh nhau với quân giặc hơn 10 trận mới phá được quân giặc.

Ở phía đông thì tên Phụng vây đánh thành Hải-dương, tỉnh-thần dâng sớ cáo-cấp. Triều đình bèn sai quan Thượng-thư bộ Hình là Trương quốc Dụng 張 國 用 ra làm tổng-thống Hải-an[1] quân-vụ, cùng với Phan tam Tỉnh 潘 三 省, Đặng Hạnh 鄧 杏, Lê Xuân 黎 春, đem quân Kinh và quân Thanh, Nghệ ra tiến-tiễu. Lại sai Đào Trí 陶 致 làm tham-tán đại-thần, Nguyễn bá Nghi 阮 伯 儀 làm Sơn-Hưng-Tuyên[2] tổng-đốc, để cùng với Trương quốc Dụng đánh giặc ở Bắc-kỳ.

Lúc ấy, tỉnh Thái-nguyên thì có giặc Nông và giặc Khách đánh phá, tỉnh Tuyên-quang thì có bọn tên Uẩn 褞, tên Nông hùng Thạc 農 雄 碩 quấy nhiễu, tỉnh Cao-bằng thì bị tên giặc Khách Lý hợp Thắng 李 合 勝 vây đánh, tỉnh Bắc-ninh thì có cai tổng Vàng cướp phá, các quan lo rối cả lên. Vua Dực-tông lại sai Nguyễn tri Phương 阮 知 方 ra làm tây-bắc tổng-thống quân-vụ đại-thần, cùng với Phan đình Tuyển 潘 廷 選 và Tôn thất Tuệ 尊 室 穗 ra đánh mặt Bắc-ninh, Thái-nguyên và Tuyên-quang.

Tháng 3 năm quí-hợi (1863) Vũ Tảo 武 早 đánh lấy lại thành Tuyên-quang và bắt được tên Uẩn đóng cũi giải về trị tội. Qua tháng 4, Nguyễn tri Phương dẹp xong giặc ở Bắc-ninh, rồi đem binh lên lấy lại thành Thái-nguyên, bắt được tên Thanh 清, tên Đắc 得, tên Vân 雲 và lại phá được sào-huyệt của giặc ở núi Ma-hiên, thuộc châu Bạch-thông.

Còn ở mặt Hải-dương và Quảng-yên, thì tuy Trương quốc Dụng và Đào Trí đã giải được vây cho thành Hải-dương, nhưng thế quân giặc ở mặt bể còn mạnh lắm. Vua Dực-tông lại sai Nguyễn tri Phương làm tổng-thống Hải-an quân-vụ, Trương quốc Dụng làm hiệp-thống đem quân ra đánh mặt ấy.

Lúc bấy giờ bọn tên Phụng có sai người vào cầu-viện quan thiếu-tướng Bonard ở trong Nam-kỳ, ước hễ lấy được Bắc-kỳ thì xin để nước Pháp bảo-hộ. Nhưng vì trong Nam-kỳ còn lắm việc, mà sự giảng-hòa với Triều-đình ở Huế đã sắp xong, cho nên thiếu-tướng không nhận. Đảng tên Phụng vẫn chiếm-giữ đất Quảng-yên và những đảo ở ngoài bể, để làm sào-huyệt, rồi cho binh-thuyền đi cướp phá các nơi. Quan quân đi đánh, nhiều người bị hại.

Cuối năm quí-hợi (1863) là năm Tự-đức thứ 16, quân giặc họp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo Các-bà và ở núi Đồ-sơn, có ý muốn đem quân vào đánh đất Kinh-kỳ, nhưng chẳng may phải bão, thuyền đắm mất nhiều. Quan đề-đốc là Lê quang Tiến 黎 光 薦 và quan bộ-phủ Bùi huy Phan 裴 輝 璠 được tin ấy liền đem quân ra đánh, bị quân giặc đánh tập hậu, quan quân bỏ chạy. Lê quang Tiến và ông Bùi huy Phan phải nhảy xuống bể tự tận.

Đến tháng 6 năm giáp-tí (1864) là năm Tự-đức thứ 17, quan hiệp-thống Trương quốc Dụng 張 國 用, quan tán-lý Văn đức Khuê 文 德 圭, quan tán-tương Trần huy Sách 陳 輝 册 và quan chưởng-vệ Hồ Thiện 胡 善 đánh nhau với giặc ở đất Quảng-yên, bị giặc giết cả. Trận ấy quan quân thua to, quân-sĩ thiệt-hại rất nhiều.

Tháng 4 năm ất-sửu (1865), quân giặc đem 300 chiếc thuyền phân ra làm 3 đạo vào cướp ở mạn Hải-dương. Nguyễn tri Phương sai Nguyễn văn Vĩ đem quân ra đón đánh, bắt và chém được rất nhiều. Từ đó quan đề-đốc Mai Thiện 枚 善 quan tán-lý Đặng trần Chuyên 鄧 陳 顓, quan đốc-binh Ông ích Khiêm 翁 益 謙 phá được quân giặc hơn 10 trận. Quân giặc lui về giữ mặt Hải-ninh.

Tháng 7 năm ấy, Nguyễn tri Phương sai Đặng trần Chuyên, Ông ích Khiêm đem binh ra Quảng-yên, ước với quan nhà Thanh ở Khâm-châu để đánh lấy lại thành Hải-ninh. Quân giặc thua to, đem hơn 70 chiếc thuyền chạy ra bể. Quan quân đem binh thuyền ra đuổi đánh, tên Phụng, tên Ước thì chạy vào mạn Quảng-bình, Quảng-trị, còn những đồ-đảng, đứa thì phải bắt, đứa thì chạy trốn được. Sau tên Phụng và tên Ước cũng bị bắt đem về trị tội ở Huế.

Giặc Phụng khởi từ cuối năm tân-dậu (1861) đến cuối năm ất-sửu (1865) mới dẹp xong, kể vừa 4 năm trời, nhà nước tổn-hại rất nhiều. Khi giặc Phụng ở Quảng-yên dẹp gần xong, thì ở mạn Cao-bằng đã có giặc Khách đánh lấy tỉnh-thành. Quan kinh-lược Võ trọng Bình 武 仲 平 và quan tuần-phủ Phạm chi Hương 范 芝 香 đem binh lên Lạng-sơn rồi chia quân đi đánh các nơi, từ tháng 9 năm ất-sửu (1865) cho đến tháng 3 năm bính-dần (1866), thì tướng giặc là Trương cận Bang 張 覲 邦 mới xin về hàng, và mới thu-phục lại được thành Cao-bằng.

Nguyễn tri Phương và Võ trọng Bình về Kinh coi việc triều-chính.

5. SỰ PHẢN-NGHỊCH Ở KINH-THÀNH. Việc ngoài Bắc mới hơi nguôi-nguôi, thì Kinh-đô lại có việc làm cho náo động lòng người.

Nguyên vua Dực-tông là con thứ mà được nối ngôi, là vì người anh ngài là Hồng Bảo 洪 保 phóng đãng, không chịu học-hành cho nên không được lập. Ông ấy lấy điều đó làm tức-giận, bèn đồ mưu với một nước ngoại-quốc để tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ ra, ông ấy phải bỏ ngục, rồi uống thuốc độc mà chết. Còn con ông ấy thì được tha mà phải đổi tên là Đinh Đạo 丁 導.

Đến năm bính-dần (1866) là năm Tự-đức thứ 19, nhà vua đang xây Vạn-niên-cơ tức là Khiêm-lăng bây giờ, quân-sĩ phải làm-lụng khổ-sở, có nhiều người oán-giận. Bấy giờ ở Kinh có Đoàn Trưng 段 徵 cùng với em là Đoàn hữu Ái 段 有 愛, Đoàn tư Trực 段 司 直, và bọn Trương trọng Hòa 張 仲 和, Phạm Lương 范 梁, kết làm « Sơn-đông-thi-tửu-hội 山 東 詩 酒 會 » để mưu việc lập Đinh Đạo 丁 導 lên làm vua. Bọn tên Trưng mới chiêu-dụ những lính làm ở Vạn-niên-cơ và cùng với quan hữu-quân Tôn-thất Cúc 尊 室 菊 làm nội ứng, định ngày khởi sự.

Đến đêm hôm mồng 8 tháng 8, bọn tên Trưng đem quân vào cửa tả-dịch, chực xông vào điện giết vua Dực-tông. May nhờ có quan chưởng-vệ là Hồ Oai 胡 威 đóng được cửa điện lại, hô quân bắt được tên Trưng, tên Trực và cả bọn đồng đảng.

Đinh Đạo phải tội giảo, Tôn-thất Cúc thì tự-vẫn chết, còn các quan có trách-nhiệm đều phải chiếu tội nặng nhẹ, hoặc phải cách.

Lúc ấy ngoài thì có giặc cướp đánh-phá, trong thì có nghịch-thần làm loạn. Ở mặt Quảng-nghĩa lại có giặc mọi Đá-vách cứ hay xuống quấy-nhiễu dân-gian, may nhờ có quan tiễu-phủ Nguyễn Tấn 阮 縉 ra sức đánh-dẹp mới yên được. Việc giao-thiệp với nước Pháp thì càng ngày càng khó. Ở Bắc-kỳ thì có giặc Khách một ngày một mạnh, đến nỗi quan quân đánh không được, phải nhờ quân Tàu sang dẹp hộ. Triều-đình cũng bối rối không biết tính ra thế nào cho khỏi được sự biến-loạn.

6. GIẶC KHÁCH Ở BẮC-KỲ. Ở bên Tàu lúc bấy giờ cũng loạn: ngoài thì đánh nhau với nước Anh-cát-lợi và nước Pháp-lan-tây. Triều-đình phải bỏ Kinh-đô mà chạy; trong thì có giặc Thái-bình nổi lên đánh phá, tí nữa ngôi vua nhà Thanh cũng đổ nát.

Nguyên từ năm Đạo-quang thứ 29, là năm kỷ-dậu (1849), tức là bên ta năm Tự-đức thứ 2, ở Quảng-tây có tên Hồng tú Toàn 洪 秀 全 cùng với bọn Dương tú Thanh 楊 秀 清, Tiêu triều Quí 蕭 朝 貴, Lý tú Thành 李 秀 成, nổi lên xưng là Thái-bình thiên-quốc 太 平 天 國, rồi chiếm giữ đất Kim-lăng và các tỉnh ở phía nam sông Trường-giang. May nhờ có bọn Tăng quốc Phiên 曽 國 藩, Tả tôn Đường 左 宗 棠, Lý hồng Chương 李 鴻 章, hết sức đánh-dẹp, và lại có thế ngoại-quốc tư giúp, cho đến năm Đồng-trị thứ hai là năm quí-hợi (1863) tức là bên ta năm Tự-đức thứ 16, quan nhà Thanh mới bắt được các tướng Thái-bình, Hồng tú Toàn phải uống thuốc độc tự-tử, triều-đình nhà Thanh lại thu-phục được các tỉnh ở phía Nam nước Tàu.

Lúc ấy có dư-đảng của Hồng tú Toàn là bọn Ngô Côn 吳 鯤 chạy tràn sang nước ta, trước còn nói xin hàng, rồi sau đem quân đi cướp phá các tỉnh, quan quân đánh mãi không được.

Năm mậu-thìn (1868) là năm Tự-đức thứ 21, Ngô Côn chiếm-giữ tỉnh thành Cao-bằng. Triều-đình sai quan tổng-đốc Phạm chi Hương 范 芝 香 viết thư sang cho quan nhà Thanh để xin quân Tàu sang tiễu trừ. Nhà Thanh sai phó-tướng Tạ kế Quí 謝 繼 貴 đem quân sang cùng với quan tiễu-phủ Ông ích Khiêm 翁 益 謙 và quan đề-đốc Nguyễn viết Thành 阮 曰 成, đánh phá quân của Ngô Côn ở Thất-khê. Nhưng đến tháng 7 năm ấy, quân ta đánh thua ở Lạng-sơn, quan tham-tán Nguyễn Lệ 阮 勵, quan phó đề-đốc Nguyễn viết Thành 阮 曰 成 tử trận, quan thống-đốc Phạm chi Hương 范 芝 香 bị bắt.

Triều-đình sai Võ trọng Bình 武 仲 平 ra làm Hà-Ninh tổng-đốc kiêm chức Tuyên-Thái-Lạng quân-thứ khâm-sai đại-thần, để hội với quan đề-đốc tỉnh Quảng-tây là Phùng tử Tài 馮 子 材 mà đánh giặc Ngô Côn.

Quân hai nước cùng đồng sức đánh-dẹp, đến tháng 5 năm kỷ-tị (1869) thì mới khôi-phục lại được tỉnh-thành Cao-bằng. Đến cuối năm canh-ngọ (1870), Ngô Côn đem quân vây đánh tỉnh-thành Bắc-ninh, quan tiễu-phủ Ông ích Khiêm 翁 益 謙 đánh một trận bắn chết Ngô Côn và phá tan quân giặc.

Ngô Côn tuy chết, song còn có những đồ-đảng là Hoàng sùng Anh 黄 崇 英, hiệu cờ vàng, Lưu vĩnh Phúc 劉 永 福 hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị 盤 文 二, Lương văn Lợi 梁 文 利, hiệu cờ trắng, vẫn cứ quấy-nhiễu ở mạn Tuyên-quang, Thái-nguyên, quan quân phải hết sức chống-giữ thật là vất-vả. Triều-đình sai quan trung-quân Đoàn Thọ 段 壽 ra làm tổng-thống quân-vụ ở Bắc-kỳ.

Đoàn Thọ vừa mới ra, kéo quân lên đóng ở tỉnh-thành Lạng-sơn, bọn giặc Khách là Tô Tứ 蘇 泗 nổi lên, nửa đêm vào lấy thành, bắt ông ấy giết đi, còn Võ trọng Bình thì vượt thành chạy thoát được.

Tin ấy vào đến Huế, Triều-đình vội-vàng sai Hoàng kế Viêm 黄 繼 炎[3] ra làm Lạng-Bình-Ninh-Thái thống-đốc quân-vụ đại-thần, cùng với quan tán-tương Tôn thất Thuyết 尊 室 說 đi dẹp giặc ở Bắc-kỳ. Qua tháng tư năm sau (1871), nhà vua lại sai quan Hình-bộ thượng-thư là Lê Tuấn 黎 俊 làm chức Khâm-sai thị-sự để cùng với ông Hoàng kế Viêm lo việc đánh-dẹp.

Tháng 11 năm tân-mùi (1871), ở Quảng-yên lại có tên Hoàng-Tề 黄 齊 nổi lên, thông với giặc Tô Tứ và giặc Tàu-ô ở ngoài bể, rồi đem binh-thuyền đi cướp phá các nơi. Hoàng kế Viêm giữ mạn Sơn-tây, Lê Tuấn ra cùng với tỉnh-thần Hải-dương đem quân đi đánh giặc Tề. Được ít lâu, quân thứ tỉnh Hải-dương bắn chết tên Tề ở huyện Thanh-lâm, dư-đảng giặc ấy đều tan cả.

Ở mạn thượng-du thì đảng cờ đen là bọn Lưu vĩnh Phúc và đảng cờ vàng là bọn Hoàng sùng Anh quấy-nhiễu ở đất Tuyên-quang. Bao nhiêu thuế-má ở mạn ấy, chúng thu cả, sau hai đảng ấy lại thù-khích nhau, đánh phá nhau thật là tàn-hại. Đảng cờ đen về hàng với quan ta, nhà vua bèn dùng Lưu vĩnh Phúc cho ở đất Lao-kay, được thu cả quyền-lợi ở chỗ ấy, để chống-giữ với đảng cờ vàng, đóng ở mạn Hà-giang.

Đất Bắc-kỳ cứ giặc-giã mãi, quan quân đánh-dẹp thật là tổn-hại mà không yên được. Đến tháng 7 năm nhâm-thân (1872), Triều-đình lại sai Nguyễn tri Phương 阮 知 方 làm Tuyên-sát đổng-sức đại-thần 宣 察 董 飭 大 臣 ra thay mặt vua xem-xét việc đánh giặc ở Bắc-kỳ. Nhưng lúc bấy giờ việc giặc ở trong nước chưa xong, thì sự giao-thiệp với nước Pháp đã sinh ra lắm nỗi khó-khăn, khiến việc nước lại rối thêm ra nữa.

  1. Hải-dương và Quảng-an.
  2. Sơn-tây Hưng-hóa và Tuyên-quang.
  3. Có sách chép là Hoàng tá Viêm 黄 佐 炎