Việt Nam sử lược/Quyển I/Phần I/Chương IV

CHƯƠNG IV

NHÀ TRIỆU

趙 氏

(207-111 tr. Tây-lịch)

1. TRIỆU VŨ-VƯƠNG (207-137 tr. Tây-lịch). Năm quí-tị (207) Triệu Đà đánh được An-dương-vương rồi, sáp-nhập nước Âu-lạc vào quận Nam-hải, lập thành một nước gọi là Nam-việt 南 越, tự xưng làm vua, tức là Vũ-vương 武 王, đóng đô ở Phiên-ngung 番 禺, gần thành Quảng-châu bây giờ.

2. VŨ-VƯƠNG THỤ-PHONG NHÀ HÁN. Trong khi Triệu Vũ-vương gây-dựng cơ-nghiệp ở Nam-việt, thì ở bên Tàu, ông Lưu Bang 劉 邦 trừ được nhà Tần 秦, diệt được nhà Sở 楚, nhất-thống thiên-hạ, rồi lên ngôi Hoàng-đế, tức là vua Cao-tổ nhà Hán 漢 高 祖. Vua Cao-tổ thấy Triệu Vũ-vương độc-lập ở phương nam, bèn sai Lục Giả 陸 賈 sang phong cho Vũ-vương. Bấy giờ là năm ất-tị (196 tr. Tây-lịch), năm thứ 12 đời vua Vũ-vương nhà Triệu, và năm thứ 11 đời vua Cao-tổ nhà Hán.

Vũ-vương vốn là người kiêu-căng, có ý không muốn phục nhà Hán 漢, đến khi Lục Giả sang đến nơi, vào yết-kiến Vũ-vương, Vũ-vương ngồi xếp vành tròn, không đứng dậy tiếp. Lục Giả thấy vậy mới nói rằng: « Nhà vua là người nước Tàu, mồ-mả và thân-thích ở cả châu Chân-định 真 定. Nay nhà Hán đã làm vua thiên-hạ, sai sứ sang phong vương cho nhà vua, nếu nhà vua kháng-cự sứ-thần, không làm lễ thụ-phong, Hán-đế tất là tức giận, hủy-hoại mồ-mả và giết hại thân-thích của nhà vua, rồi đem quân sang đánh thì nhà vua làm thế nào? » Vũ-vương nghe lời ấy vội-vàng đứng dậy làm lễ tạ, rồi cười mà nói rằng: « Tiếc thay ta không được khởi nghiệp ở nước Tàu, chứ không thì ta cũng chẳng kém gì Hán-đế! »

3. VŨ-VƯƠNG XƯNG ĐẾ. Năm mậu-ngọ (183 tr. Tây-lịch) vua Cao-tổ nhà Hán mất rồi, bà Lữ-hậu 呂 后 lâm triều tranh quyền Huệ-đế 惠 帝, rồi lại nghe lời gièm-pha, cấm không cho người Hán buôn-bán những đồ vàng, đồ sắt và những đồ điền-khí với người Nam-việt. Vũ-vương lấy làm tức giận, lại ngờ cho Trường-sa-vương 長 沙 王 xui Lữ-hậu làm như vậy, bèn tự-lập làm Nam-việt Hoàng-đế, rồi cử binh-mã sang đánh quận Tràng-sa (tỉnh Hồ-nam bây giờ).

Năm Canh thân (181 tr. Tây-lịch) Hán-triều sai tướng đem quân sang đánh Nam-việt. Quân nhà Hán chịu không được thủy-thổ phương nam, nhiều người phải bệnh-tật, bởi vậy phải chạy thua về bắc. Từ đó thanh-thế Triệu Vũ-đế lừng-lẫy, đi đâu dùng xe ngựa theo nghi-vệ Hoàng-đế, như vua nhà Hán vậy.

4. VŨ-VƯƠNG THẦN PHỤC NHÀ HÁN. Đến khi Lữ hậu mất, Hán Văn-đế 漢 文 帝 lên ngôi, lại sai Lục Giả đưa thư sang khuyên Vũ-đế về thần phục nhà Hán. Thư rằng:

« Trẫm là con trắc-thất vua Cao-đế, phụng-mệnh ra trị nước Đại, vì non sông cách-trở, thẹn mình phác-lậu, cho nên lâu nay chưa từng đưa thư sang hỏi thăm nhà vua.

« Từ khi đức Cao-đế xa bỏ quần-thần, đức Huệ-đế qua đời, bà Cao-hậu làm-triều, không may bị bệnh, để cho họ Lữ chuyên quyền, toan đem con họ khác để nối-vì đức Huệ-đế. May nhờ nhà Tông-miếu linh-thiêng, các công-thần ra sức dẹp kẻ tiếm-nghịch.

« Trẫm vì các vương-hầu cùng bách quan cố ép, cho nên phải lên ngôi Hoàng-đế. Mới rồi trẫm nghe nhà vua có đưa thư cho Long-lư-hầu, nhắn tin và xin anh em họ-hàng ở quận Chân-định, và xin bãi binh ở quận Trường-sa.

« Trẫm cũng nghe lời thư của nhà vua, thì đã bảo tướng-quân Bác-dương-hầu bãi binh về, còn anh em họ-hàng nhà vua ở Chân-định thì trẫm đã cho người thăm-nom, lại sai sửa-sang phần-mộ nhà vua, thật tử-tế.

« Thế mà vừa rồi trẫm nghe nhà vua còn đem binh quấy-nhiễu ngoài biên, quận Trường-sa thật khổ, mà Nam-quận lại còn khổ hơn. Làm như thế, nước nhà vua có chắc lợi được một mình không? Tất là tướng-tá quân-sĩ chết nhiều, làm cho vợ người góa chồng, con người mồ-côi bố, cha mẹ mất con, được một mất mười, trẫm không lòng nào nỡ làm như vậy.

« Vả lại được đất nhà vua cũng không lấy làm to, được của nhà vua cũng không đủ làm giàu. Vậy thì từ phía nam núi Lĩnh thì mặc ý nhà vua tự-trị lấy. Nhưng nhà vua cứ xưng đế hiệu, hai bên cùng là đế-quốc mà không sai sứ giao-thông, thế chẳng hóa ra ganh nhau ư? Ganh nhau mà không nhường, thì người nhân không thèm làm.

« Trẫm nay xin cùng nhà vua gác bỏ điều cũ, từ rày trở đi, thông sứ như xưa. Vậy trẫm sai Lục Giả sang đem ý trẫm khuyên nhà vua nên nghe, chứ làm chi nhiều sự cướp bóc tai-hại ».

Xem thư của Hán Văn-đế lời-lẽ tử-tế, thật là có nhân-từ, vì thế cho nên Triệu Vũ-đế phải chịu phục, và đáp thư lại rằng:

« Nam di đại-trưởng lão-phu thần, Đà, muội tử tái bái, dâng thư lên Hoàng-đế bệ-hạ. Lão-phu là kẻ cố-lại nước Việt, khi Hiếu Huệ Hoàng-đế lên ngôi, tình-nghĩa không dứt, vẫn hậu đãi lão phu. Đến khi Cao-hậu làm triều, lại phân-biệt ra Trung-hoa, ngoại di, hạ lệnh cấm không được bán cho Nam-việt những đồ vàng sắt và điền-khí; còn ngựa, trâu, dê thì chỉ bán cho giống đực, chứ không bán cho giống cái.

« Lão-phu ở phương xa mà không có vật cúng-tế thì phải tội, vì thế có sai Nội-sử Phan, Trung-úy Cao và Ngự-sử Bình, ba lượt dâng thư sang thượng-quốc tạ quá, đều không trở về cả.

« Lão-phu lại phong văn rằng nhà Hán đem hủy-hoại cả phần mộ lão-phu cùng giết cả anh em tông-tộc lão phu, cho nên có bàn riêng với chúng rằng: nay trong đã không vẻ-vang với nhà Hán, ngoài lại không có gì hơn được nước Ngô, vậy có xưng đế-hiệu; mà chẳng qua tự đế nước mình, không dám hại gì thiên-hạ.

« Cao-hậu nghe thấy thế, lấy làm tức giận, đem tước-bỏ sổ Nam-việt đi, không cho thông sứ, lão-phu trộm nghĩ rằng hẳn vì Trường-sa-vương gièm-pha, cho nên Lão-phu có đem binh đánh.

« Lão-phu ở đất Việt đã bốn mươi chín năm nay, bây giờ đã có cháu rồi, nhưng mà sớm khuya trằn-trọc, ăn không ngon, ngủ không yên, mắt không dám trông sắc đẹp, tai không dám nghe đàn vui, là chỉ vì cớ không được phụng thờ nhà Hán. Nay nhờ bệ-hạ đoái thương, cho phục lại hiệu cũ, thông sứ như xưa, lão-phu nhờ ơn, dẫu chết xương cũng không nát.

« Vậy xin cải hiệu từ đây, và xin có cống-phẩm phụng-hiến Hoàng-đế bệ-hạ ».

Từ khi Triệu Vũ-Vương chịu bỏ đế-hiệu, Nam, Bắc lại giao-thông hòa hiếu không có điều gì nữa.

Năm giáp-thìn (137 trước Tây-lịch), Triệu Vũ-vương mất. Sử chép rằng ngài thọ được 121 tuổi và làm vua được hơn 70 năm.

5. TRIỆU VĂN-VƯƠNG (137-125 trước Tây-lịch). Triệu Vũ-vương truyền ngôi lại cho cháu đích-tôn, tên là Hồ 胡, tức là Triệu Văn-vương 趙 文 王, trị vì được 12 năm.

Triệu Văn-vương vốn là người tầm-thường, tính-khí nhu-nhược, không được như Triệu Vũ-vương. Khi mới lên làm vua được hai năm, thì vua Mân-việt 閩 越 (tỉnh Phúc-kiến bây giờ) đem quân sang đánh phá ở chỗ biên-thùy nước Nam-việt. Triệu Văn-vương không dám cử binh-mã ra chống cự, sai sứ sang cầu cứu bên Hán-triều.

Vua nhà Hán sai Vương Khôi 王 恢 và Hàn-an-Quốc 韓 安 國 đi đánh Mân-việt. Quân Mân-việt thấy quân nhà Hán đến nơi, bèn bắt Quốc-vương giết đi, đưa đầu nộp cho quan nhà Hán, và xin hàng. Mân-việt đã bình rồi vua nhà Hán sai Trang Trợ 莊 助 sang dụ Triệu Văn-vương vào chầu, nhưng mà đình-thần xin đừng đi, bèn cho thái-tử là Anh Tề 嬰 齊 đi thay.

Anh Tề ở bên Hán-triều mười năm, đến năm bính-thìn (125 tr. Tây-lịch) vua Văn-vương mất thì mới về nối ngôi.

6. TRIỆU MINH-VƯƠNG (125-113 tr. Tây-lịch). — Anh Tề lên làm vua tức là Triệu Minh-vương 明 王, trị vì được 12 năm.

Khi Anh Tề ở bên Hán có lấy người vợ lẽ là Cù-thị 樛 氏, đẻ được một người con tên là Hưng 興. Đến khi về làm vua Nam-việt, Minh Vương lập Cù-thị lên làm hoàng-hậu và Hưng làm Thái-tử.

7. TRIỆU AI-VƯƠNG. Năm mậu-thìn (113 tr. Tây-lịch) Triệu Minh-vương mất, thái-tử Hưng lên làm vua, tức là Triệu Ai-vương 哀 王, trị-vì được một năm.

Bấy giờ vua nhà Hán cho An-quốc Thiếu Quí 安 國 少 季 sang dụ Nam-việt về chầu. Thiếu Quí nguyên là tình-nhân của Cù-thị lúc trước, đến khi sang Nam-việt gặp nhau, lại tư-thông với nhau rồi dỗ-dành Ai-vương đem nước Nam-việt về dâng nhà Hán.

Khi Cù-thị và Ai-vương đã định về Hán-triều, thì có quan Tể-tướng là Lữ Gia 呂 嘉, biết rõ tình-ý, đã can-ngăn mãi không được, mới truyền hịch đi mọi nơi nói rằng vua và Cù thái-hậu sắp đem nước dâng cho nhà Hán; rồi Lữ Gia cùng với mấy người đại-thần đem quân cấm-binh vào giết sứ nhà Hán, Cù-thị và Ai-Vương. Đoạn rồi tôn Kiến Đức 建 德 lên làm vua. Kiến Đức là con trưởng của Minh-vương, mẹ là người Nam-việt làm vua.

8. TRIỆU DƯƠNG-VƯƠNG. Kiến Đức lên làm vua, tức là Dương-vương 陽 王. Dương-vương mới lên làm vua được độ một năm thì vua Vũ-đế nhà Hán 漢 武 帝 sai Phục-ba tướng-quân là Lộ bác Đức 路 博 德 và Dương Bộc 楊 僕 đem 5 đạo quân sang đánh lấy Nam-việt. Quan Thái-phó Lữ Gia ra chống cự không nổi, phải đem Dương-vương chạy. Quân nhà Hán đuổi theo bắt được, vua tôi đều bị hại cả. Năm ấy là năm canh-ngọ (111 tr. Tây-lịch), nước Nam bị người Tàu chiếm lấy, cải là Giao-chỉ-bộ 交 趾 部, chia ra làm 9 quận, và đặt quan cai-trị như các châu quận bên Tàu vậy.