Việt Nam sử lược/Quyển I/Phần I/Chương III
CHƯƠNG III
XÃ-HỘI NƯỚC TÀU
VỀ ĐỜI TAM ĐẠI VÀ ĐỜI NHÀ TẦN
Khi Triệu Đà sang đánh An-dương-vương thì ở bên Tàu nhà Tần đã suy, nhà Hán sắp lên làm vua, nước Tàu đang vào lúc đại loạn, phong-tục, chính-trị đều đổi khác cả. Vả lại Triệu-Đà là người Tàu, làm quan nhà Tần, cho nên đến khi lấy được Âu-lạc, gồm cả các quận ở phương nam, lập làm một nước tự-chủ, bèn đem chính-trị, pháp-luật nước Tàu sang cai-trị đất Nam-việt[1]. Vậy trước khi nói đến chuyện nhà Triệu, ta nên xét-xem xã-hội nước Tàu lúc bấy giờ là thế nào.
1. PHONG-KIẾN. Nguyên về đời thái-cổ, nước Tàu chia ra từng địa-phương một. Mỗi một địa-phương thì có một người làm thủ-lĩnh, lập thành một nước, gọi là nước chư-hầu 諸 侯, phải triều cống nhà vua.
Số những nước chư hầu ấy thì mỗi đời một khác. Xem như khi vua Đại-vũ 大 禹 nhà Hạ 夏, hội các nước chư-hầu ở núi Đồ-sơn, kể có hàng vạn nước. Đến khi vua Vũ-vương nhà Chu 周 đi đánh Trụ-vương nhà Ân 殷 紂 王, thì các nước chư-hầu hội lại cả thảy được 800 nước.
Đánh xong nhà Ân, vua Vũ-vương 武 王 phong cho hơn 70 người làm vua chư-hầu, chia ra làm 5 bậc là: công, hầu, bá, tử, nam. Nước phong cho tước công, tước hầu thì rộng 100 dặm gọi là đại-quốc; nước phong cho người tước bá thì rộng 70 dặm, gọi là trung quốc; nước phong cho người tước tử, tước nam thì rộng 50 dặm, gọi là tiểu quốc. Những nước không đủ 50 dặm, thì gọi là nước phụ-dung 附 庸.
2. QUAN-CHẾ. Nhà Hạ đặt tam-công 三 公, cửu-khanh 九 卿, 27 đại-phu 大 夫, 81 nguyên-sĩ 元 士.
Nhà Ân đặt hai quan tướng 二 相, sáu quan thái 六 太 là: thái-tể, thái-tông, thái-tử, thái-chúc, thái-sĩ, thái-bốc; năm quan 五 官 là: tư-đồ, tư-mã, tư-không, tư-sĩ, tư-khấu; sáu phủ 六 府 là: tư-thể, tư-mộc, tư-thủy, tư-thảo, tư-khí, tư-hóa; sáu công 六 工 là: thổ-công, kim-công, thạch-công, thủy-công, thú-công và thảo-công.
Đến nhà Chu, ông Chu-công đặt ra sáu quan 六 官 gọi là: thiên-quan 天 官, địa-quan 地 官, xuân-quan 春 官, hạ-quan 夏 官, thu-quan 秋 官, đông-quan 冬 官. Mỗi một quan lại có 60 thuộc-quan, cộng cả lại là 360 người.
Người làm đầu thiên-quan 天 官, gọi là trủng-tể 冢 宰, thống cả việc chính-trị trong nước, việc thu-nạp cả năm và mọi việc ở trong cung. Người làm đầu địa-quan 地 官 gọi là đại-tư-đồ 大 司 徒 giữ việc nông, việc thương, việc giáo-dục và việc cảnh-sát. Người làm đầu xuân-quan 春 官 gọi là đại-tông-bá 大 宗 伯, giữ việc tế, tự, triều, sính, hội-đồng v.v... Người làm đầu hạ-quan 夏 官, gọi là đại-tư-mã 大 司 馬, giữ việc binh-mã và việc đi đánh-dẹp. Người làm đầu thu-quan 秋 官 gọi là đại-tư-khấu 大 司 寇, giữ việc dân, việc hình và việc kiện-tụng. Người làm đầu đông-quan 冬 官 gọi là đại-tư-không 大 司 空 giữ việc khuyến-công, khuyến nông và việc thổ-mộc v.v...
Trên lục-quan lại đặt tam-công 三 公, là: thái-sư 太 師, thái-phó 太 傅, thái-bảo 太 保; tam-cô 三 孤 là : thiếu-sư 少 師, thiếu-phó 少 傅, thiếu-bảo 少 保, để bàn xét việc trị nước yên dân, chứ không dự vào việc hành-chính.
3. PHÁP-CHẾ. Về đời thái-tổ thì có năm hình, ngoài năm hình lại có phép đánh bằng roi da và tội lưu. Đến đời nhà Hạ, nhà Ân và nhà Chu thì lại đặt phép chặt chân, gọt đầu và tội đồ. Đến cuối đời nhà Chu thì đặt ra tội bêu đầu, xé thây lăng-trì, mổ, muối v.v...
4. BINH-CHẾ. Binh-chế nhà Hạ và nhà Ân thì không rõ, đến đời nhà Chu thì đặt 5 người làm một ngũ 伍; 5 ngũ tức là 25 người thành một lượng 兩; 4 lượng tức là 100 người làm một tốt 卒; 5 tốt tức là 500 người làm một lữ 旅; 5 lữ tức là 2500 người làm một sư 師; 5 sư tức là 12500 người tức là một quân 軍.
Quân thì đặt quan mạnh-đan làm tướng, sư thì đặt quan trung đại-phu làm súy, lữ thì đặt quan hạ đại-phu làm súy, tốt thì đặt quan thượng-sĩ làm trưởng, lượng thì đặt quan trung-sĩ làm tư-mã.
Thiên-tử có 6 quân; còn những nước chư-hầu, nước nào lớn thì có 3 quân, nước vừa có 2 quân, nước nhỏ 1 quân.
Trong nước chia ra làm tỉnh 井, mỗi tỉnh 8 nhà, 4 tỉnh làm một ấp 邑, 32 nhà; 4 ấp làm một khâu 邱, 128 nhà; 4 khâu làm một điện 甸, 512 nhà. Cứ mỗi điện phải chịu một cỗ binh-xa, bốn con ngựa, 12 con bò, 3 người giáp-sĩ, 72 người bộ tốt, 25 người để khiêng-tải những đồ nặng. Cả thảy là 100 người.
5. ĐIỀN-CHẾ. Về đời thái-cổ thì không biết cách chia ruộng đất ra làm sao. Từ đời nhà Hạ trở đi thì chia 50 mẫu làm một gian 間, 10 gian làm một tổ 組. Cứ 10 nhà cày một lô ruộng, hoa-lợi được bao nhiêu chia làm 10 phần, nhà-nước lấy một, gọi là phép cống 貢.
Nhà Ân và nhà Chu thì dùng phép tỉnh-điền, nghĩa là chia đất ra làm chín khu hình chữ tỉnh (井). Những khu ở chung quanh làm tư-điền, khu ở giữa để làm công-điền. Mỗi một tỉnh cho 8 nhà ở, đều phải xuất lực cày-cấy công điền rồi nộp hoa-lợi cho nhà vua.
Về đời nhà Ân thì mỗi tỉnh có 630 mẫu, mỗi nhà được 70 mẫu; phép đánh thuế gọi là phép trợ 助. Đến đời nhà Chu thì mỗi tỉnh có 900 mẫu, mỗi nhà 100 mẫu, phép đánh thuế gọi là phép triệt 徹.
Nhà Chu lại đặt ra lệ cứ 20 tuổi thì được 100 mẫu ruộng, đến 60 tuổi thì trả lại cho nhà nước. Nhà nào có con thứ nhì gọi là dư phu 餘 夫 đến 16 tuổi thì được lĩnh 25 mẫu ruộng.
Nhờ có phép chia ruộng như thế nên lúc bấy giờ không có người nào nghèo lắm mà cũng không có người giàu lắm. Về sau đến đời Chiến-quốc 戰 國, ngươi Lý Khôi 李 悝 làm tướng nước Ngụy 魏, bắt dân hết sức làm ruộng, không định hạn như trước nữa; ngươi Thương Ưởng 商 鞅 làm tướng nước Tần 秦, bỏ phép tỉnh-điền 井 田, mở thiên-mạch 阡 陌, cho mọi người được tự tiện làm ruộng. Phép chia đất từ đó mới mất dần dần đi.
6. HỌC-HIỆU. Nhà Hạ đặt nhà Đông-tự 東 序 làm đại-học, nhà Tây-tự 西 序 làm tiểu-học. Nhà Ân đặt là Hữu-học 右 學 làm đại-học, nhà Tả-học 左 學 làm tiểu-học. Những nhà đại-học, tiểu-học ấy, là chỗ để tập bắn, để nuôi những người già-cả và để tập văn nghệ.
Nhà Chu thì đặt Tích-ung 辟 雍 hoặc nhà Thành-quân 成 均 làm nhà đại-học, để cho con vua, con các quan và những người tuấn-tú tuyển ở các thôn-xã đến học; còn ở châu, ở đảng[2] thì đặt nhà tiểu-học gọi là Tự 序 và nhà Tường 庠 để cho con dân-gian vào học. Lại đặt lệ cứ từ 8 tuổi đến 14 tuổi làm niên-hạn cho tiểu-học, từ 15 đến 20 tuổi, làm niên-hạn cho đại-học. Đại-học thì dạy lễ, nhạc, thi, thư; tiểu-học thì dạy cách kính trên nhường dưới và cách ứng đối, v.v.
7. HỌC-THUẬT. Học-thuật ở nước Tàu về đời nhà Chu đã thịnh lắm, cho đến đời Xuân-thu 春 秋 có nhiều học-giả như là Lão-tử 老 子 bàn đạo; Khổng-tử 孔 子 bàn hiếu, đễ, nhân, nghĩa; Mặc Địch 墨 翟 bàn lễ kiêm-ái, nên chuộng sự tiết-kiệm bỏ âm-nhạc; Dương Chu 楊 朱 thì bàn lẽ vị-kỷ, nên tự-trọng thân mình và không chịu thiệt mình để lợi người.
Lại có những pháp-gia như Thân Bất-Hại 申 不 害, Hàn Phi 韓 非 bàn việc trị thiên-hạ thì chỉ nên dùng pháp-luật, chứ không nên dùng nhân-nghĩa. Còn những người như Quỉ Cốc 鬼 谷, Thi Giảo 尸 狡, Điền Biền 田 騈, v.v..., mỗi người đều xướng một học-thuyết để dạy người đương thời.
8. PHONG-TỤC. Nước Tàu lấy sự cày ruộng làm gốc, nhưng mà việc nuôi tằm, dệt lụa, việc họp chợ, việc buôn-bán cũng phát-đạt cả.
Dân trong nước chia ra làm 4 thứ: sĩ, nông, công, thương, nhưng mà con người làm quan lại làm quan, con người làm ruộng cứ làm ruộng, chứ con người làm ruộng không được làm quan. Tuy vậy, đến đời Xuân-thu những người thứ dân lên làm tướng văn tướng võ cũng nhiều.
Trong gia-đình thì già trẻ trên dưới phân-biệt nghiêm lắm. Con phải theo cha, vợ phải theo chồng, con-trai con-gái từ 7 tuổi trở đi, là không được ăn một mâm, nằm một chiếu nữa. Con trai 30 tuổi mới lấy vợ, gái 20 tuổi mới lấy chồng mà hai người cùng họ không được lấy nhau.
Nước Tàu về đời Tam-đại 三 代 cũng sùng sự tế-tự lắm. Thường cúng-tế thiên, địa, nhật, nguyệt, sơn, xuyên, lâm, trạch. Nhà vua lập đàn Nam-giao để tế Thượng-đế. Lại có nhà Xã-tắc để tế Thổ-thần và Hậu-tắc. Còn sự thờ-phụng tổ-tiên thì từ vua cho đến thứ-dân đều lấy làm một việc rất quan-trọng trong đời người.
Xem như thế, thì xã-hội nước Tàu về đời Tam-đại đã văn-minh lắm, nhưng sau đến cuối đời nhà Chu, vì nhà vua suy-nhược, cho nên chư-hầu, người xưng hầu, kẽ xưng vương rồi tranh nhau, đánh nhau như Ngũ Bá đời Xuân-thu, Thất-hùng đời Chiến-quốc, làm cho trăm họ lầm-than khổ-sở.
Sau nhà Tần thống-nhất được thiên-hạ, mới bỏ lệ phong-kiến, lập ra quận huyện; bỏ phép tỉnh-điền, lập thiên-mạch; cấm nho-học đốt sách-vở, việc chính-trị thì cốt dùng pháp-luật, để lấy quyền-lực mà áp-chế.
Đang khi phong-tục nước Tàu biến-cải như thế, thì Triệu Đà lập ra nước Nam-việt[3], đem văn-minh nước Tàu sang truyền-bá ở phương nam, cho nên từ đó về sau người nước mình đều nhiễm cái văn-minh ấy.
NƯỚC TÀU VỀ ĐỜI NHÀ TẦN