Truyền kỳ mạn lục  (1547?)  của Nguyễn Dữ, do Ngô Văn Triện dịch
Cuộc nói chuyện thơ ở Kim-hoa

CUỘC NÓI CHUYỆN THƠ Ở KIM-HOA


Huyện Kim-Hoa[1] có người con gái họ Ngô tên Chi-Lan, là bậc nội trợ hiền của vị tiên-sinh họ Phù. Nàng chữ tốt văn hay, nhất là thơ ca càng giỏi lắm. Đức Thuần hoàng-đế (Thánh-tôn) triều nhà Lê yêu tài văn-mặc, vời nàng vào cung, giao cho việc dạy các cung-nữ. Mỗi khi yến tiệc, nàng thường ôm quyển đứng chầu hầu vua, hễ vua phán làm thơ, chỉ thoắt-chốc đã làm xong ngay, không cần phải chữa-sửa gì cả. Năm ngoài 40 tuổi nàng mất, táng ở cánh bãi Tây-nguyên.

Cuối đời Đoan-khánh[2], có người học-trò là Mao Tử-Biên đến du-học ở Kinh-thành, lâu ngày nhớ nhà, bèn về thăm quê ở huyện Đồng-hỷ thuộc Thái-nguyên. Đường về qua hạt huyện Kim-hoa, chợt gặp cơn mưa gió. Thôn xa đồng vắng, trời lại tối sập xuống. Tử-Biên đưa mắt nhìn quanh, thấy ở đàng nam có bóng đèn thấp-thoáng, bèn rảo bước đến. Đến nơi thì thấy có mấy gian nhà tranh ở giữa khoảng cây-cối rậm-rạp. Tử-Biên nhân lúc túng bí, nói xin vào ngủ nhờ; song người coi cổng không cho vào. Chàng trông vào trong nhà, thấy một ông già đương ngồi ở giữa giường; bên cạnh có một vị mỹ-nhân, trâm ngọc hài cườm, coi như một vị phi-tần vậy. Mỹ-nhân nói với ra, bảo người coi cổng:

— Canh khuya đêm vắng, trời lại mưa gió người ta xin ngủ nhờ không cho thì người ta ngủ đâu bây giờ.

Thấy chủ nhà nói vậy, Tử-Biên vén áo bước vào, nghỉ nhờ ở mái hiên phía nam nhà khách.

Gần đến trống hai, chàng thấy có một người mày râu đã nửa phần trắng bạc, hai vai cao trội, cưỡi một con lừa tía đi đến. Ông già xuống thềm đón tiếp nói:

— Đường xa lận-đận đến chơi, tiên-sinh sao mà chịu khó thế!

Khách nói:

— Trót đã ước-hẹn, không nỡ sai lời. Chỉ buồn mưa gió đầy thành. Phần-Lão thơ ngâm đến đành bỏ dở[3] mất.

Chủ khách bèn chia ngôi cùng ngồi đối diện bàn luận văn-chương; cả phu-nhân cũng dự nhưng ngồi thấp xuống một bậc. Ông khách thấy phu-nhân có làm bốn bài từ bốn mùa đề vào bốn bức bình bằng vân-mẩu, bèn thử đọc xem:

Bức thứ nhất đề bài xuân từ

初 晴 薰 人 天 似 醉
Sơ tình huân-nhân thiên tự túy
艷 陽 樓 臺 浮 暖 氣
Diệm dương lâu đài phù hoản khí
隔 簾 柳 絮 度 鶯 梭
Cách liêm liễu nhứ độ oanh thoa

繞 檻 花 鬚 穿 蝶 翅
Nhiễu hạm hoa tu xuyên điệp thí
階 前 紅 線 日 添 長
Giai tiền hồng tuyến nhật thiêm trường
粉 汗 微 微 沁 綠 裳
Phấn hãn vi-vi tấm lục thường
小 子 不 知 春 思 苦
Tiểu tử bất tri xuân tứ khổ
傾 身 含 笑 過 牙 牀
Khuynh thân hàm tiếu quá nha sàng

Dịch:

Hun người nắng mới như say,
Lâu-đài ấm-áp nhuốm đầy dương quang.
Cách rèm liễu biếc oanh vàng,
Quanh hiên cái bướm mơ-màng bên hoa.
Trước thềm ánh nhật dài ra,
Mầu hôi dâm-dấp xiêm là đượm xanh.
Sầu xuân nặng trĩu bên mình,
Ngây-thơ gã nhỏ lanh-chanh cợt cười.

Bức thứ hai, hạ từ

風 吹 柳 花 紅 片 片
Phong xuy liễu hoa hồng phiến phiến
佳 人 閒 打 鞦 韆 院
Giai-nhân nhàn đả thu thiên viện
傷 春 背 立 一 黄 鶯
Thương xuân bội lập nhất hoàng oanh
惜 景 哀 啼 雙 紫 燕
Tích cảnh ai đề song tử yến
停 針 無 語 翠 眉 低
Đình châm vô ngữ thúy my đê,
倦 倚 紗 窗 夢 欲 迷
Quyện ỷ sa song mộng dục mê

却 怪 捲 簾 人 喚 起
Khước quái quyển liêm nhân hoán khởi
香 魂 終 不 到 遼 西
Hương hồn chung bất-đáo Liêu-tây

Dịch:

Gió rung hoa lựu tơi-bời,
Trên đầu tha-thướt dáng người mỹ-nhân.
Oanh vàng ủ-rũ thương xuân,
Một đôi én tía họa vần trong cây.
Dừng kim rủ thấp đôi mày,
Nương song hồn mộng xa bay cuối trời.
Cuộn rèm nheo-nhéo kìa ai,
Cho hồn chẳng tới cõi ngoài Liêu-tây.

Bài thứ ba, thu từ

清 商 浮 空 澄 霽 景
Thanh thương phù không trừng tễ cảnh
霜 信 遙 將 鴈 影
Sương tín dao tương cô nhạn ảnh
十 丈 蓮 殘 玉 井 香
Thập trượng liên tàn ngọc tỉnh hương
三 更 風 落 吳 江 冷
Tam canh phong lạc ngô giang lãnh
飛 螢 夜 度 碧 闌 干
Phi huỳnh dạ độ bích lan-can
衣 薄 難 禁 剪 剪 寒
Y bạc nan câm tiễn tiễn hàn
聲 斷 洞 簫 凝 立 久
Thanh đoạn đỗng tiêu ngưng lập cửu
瑤 臺 何 處 覓 驂 鸞
Dao đài hà xứ mịch tham loan.

Dịch:

Hơi may hiu-hắt bàu không,
Tinh sương thấp-thoáng cánh hồng xa bay
Sen tàn giếng hãy thơm lây,
Ba canh gió thổi lạnh đầy sông Ngô.
Bên lan đóm lượn ra vô,
Phong-phanh áo mỏng hơi lùa căm-căm
Tiếng tiêu đã dứt, âm-thầm,
Đài Dao đâu tá khôn nhằm dấu loan.

Bức thứ tư, đông từ

寶 爐 撥 火 銀 瓶 小
Bảo lô bát hỏa ngân bình tiểu
一 杯 羅 浮 破 清 曉
Nhất bôi la phù phá thanh hiểu
雪 將 冷 意 透 疎 簷
Tuyết tương lãnh ý thấu sơ liêm
風 遞 輕 冰 落 寒 沼
Phong đệ khinh băng lạc hàn chiểu
美 人 金 帳 掩 流 蘇
Mỹ-nhân kim trướng yểm lưu tô
紙 護 雲 窗 片 片 糊
Chỉ hộ vân song phiến-phiến hồ
暗 裏 挽 回 春 世 界
Ám lý vãn hồi xuân thế giới
一 株 芳 信 小 山 孤
Nhất tru phương tín tiểu sơn cô

Dịch:

Lò hương nhóm ngọn lửa hồng
La-phù[4] một chén ấm lòng ban mai

Lọt rèm tuyết lạnh lồng hơi,
Gió đưa băng rụng tơi-bời mặt ao.
Mỹ-nhân trướng gấm rủ thao.
Cửa hồ phất giấy song cao vắng người.
Thần đem xuân lại cho đời.
Đầu non chớm nở một trời mai-hoa.

Ông khách đọc xong than rằng:

— Nam-châu nếu không có tôi, biết đâu phu-nhân chẳng là tay tuyệt xướng; mà tôi nếu không có phu-nhân, biết đâu chẳng là tay kiệt xuất trong một thời. Thế mới biết lời đồn quả không ngoa thật.

Phu-nhân nói:

— Tài tôi nhỏ-mọn, đâu dám so-sánh với ngài trong muôn một. May mà gặp được tiên-triều, hằng ngày chầu hầu nghiên-bút, cho nên mới thông lề-luật, chắp nối thành bài. Một hôm tôi nhân đi chơi núi Vệ-linh[5], tức là nơi đức Đổng thiên-vương bay lên trời, tôi có đề rằng:

衛 靈 春 樹 白 雲 閒
Vệ linh xuân thụ bạch vân nhàn
萬 紫 千 紅 豔 世 間
Vạn tử thiên hồng diệm thế gian
鐵 馬 在 天 名 在 史
Thiết mã tại thiên danh tại sử
英 威 凜 凜 滿 江 山
Anh uy lẫm-lẫm mãn giang-san.

Dịch:

Vệ-linh mây trắng tỏa cây xuân,
Hồng tía muôn hoa đẹp cảnh trần.

Ngựa sắt về trời, danh ở sử.
Oai thanh còn dậy khắp xa gần.

Sau vài tháng, bài ấy truyền khắp trong cung, đức Hoàng-thượng rất là khen-ngợi, ban cho một bộ áo.

Lại một hôm, Hoàng-thượng ngự ở cửa Thanh dương, sai quan Thị-thư họ Nguyễn làm bài từ khúc uyên-ương. Bài làm xong, nhưng Hoàng-thượng không vừa ý, ngoảnh bảo tôi rằng:

— Văn nàng cũng hay lắm, hãy thử đem tài hoa gấm cho trẫm xem nào.

Tôi vâng mệnh, cầm bút làm xong ngay, có hai câu cuối thế nầy:

凝 碧 飛 成 金 殿 瓦
Ngưng bích phi thành kim điện ngõa,
皺 紅 織 就 錦 江 羅
Trứu hồng chức tựu Cẫm-giang la.
(Biếc đọng kết nên ngói đền vàng,
Hồng châu dệt thành lụa Cẩm-giang.)

Hoàng-thượng khen ngợi hồi lâu, ban cho 5 đĩnh vàng, lại gọi là « Phù-gia nữ-học-sĩ ». Từ đó tôi nức tiếng đương thời, được làng văn-mặc coi trọng, đại-khái đều do sức giúp của đấng Tiên-hoàng cả. Đến khi đức Thuần hoàng-đế thăng-hà tôi có làm bài thơ viếng rằng:

三 十 餘 年 拱 紫 宸
Tam thập dư niên củng tử thần,
九 州 四 海 囿 同 仁
Cửu châu tứ hải hựu đồng nhân.
東 西 地 拓 輿 圖 大
Đông tây địa thác dư đồ đại,
皇 帝 天 恢 事 業 新
Hoàng-đế thiên khôi sự nghiệp tân.

雪 擁 真 遊 無 處 覓
Tuyết ủng chân du vô xứ mịch
花 催 上 苑 爲 誰 春
Hoa thôi thượng uyểng vị thùy xuân
夜 來 作 鈞 韶 夢
Dạ lai do tác quân thiều mộng,
悵 望 橋 山 淚 滿 巾
Trướng vọng Kiều-sơn lệ mãn cân.

Dịch:

Ba chục năm hơn ngự điện vàng
Chín châu bốn bể gội ân quang
Quy-mô hoàng-đế trời cao cả
Bờ cõi đông tây đất mở-mang
Tuyết hộ xe loan mờ-mịt bóng
Hoa phô vươn cấm bẽ-bàng hương
Quân-thiều[6] đêm vắng mơ thường thấy
Xa ngóng Kiều-sơn[7] lệ mấy hàng.

Ông khách nói:

— Bài thơ nầy tuy không có gì mới lạ nhưng thương-nhớ có thừa, rất hợp với ý-thái của người đời xưa. Thơ của người đời xưa, lấy hùng-hồn làm gốc, bình-đam làm khéo, câu tuy ngắn nhưng ý thì dài, lời tuy gần nhưng nghĩa thì xa. Người thơ thì lại khác hẳn, hễ không có giọng đong-đeo tất có giọng mỉa-giễu, làm phú Cao-đường thì bôi xấu Thần-nữ[8], làm ca Thất-tịch thì nói mỉa Thiên-tôn[9] bày chuyện đặt điều, không còn cách nào tệ hơn nữa. Vì thế mà tôi những thương đời chán cảnh.

Phu-nhân lặng nghe, bất-giác ứa hai hàng nước mắt. Ông khách hỏi thì phu-nhân nói:

— Tôi thờ đức Thánh-tông lâu năm rồi lại thờ đức Hiến-tông, nghĩa kết vua tôi, nhưng tình thật như cha con vậy, lúc chầu-hầu, khi lui tới, không cần giữ ý tỵ hiềm. Không ngờ vì thế mà những kẻ thiển-bạc, bày chuyện nói xằng, thường làm những câu thơ mỉa giễu. Như là câu:

君 王 要 欲 消 閒 恨
Quân vương yếu dục tiêu nhàn hận
應 喚 金 華 學 士 來
Ưng hoán Kim-hoa học-sĩ lai
(Quân vương nếu muốn khuây buồn-nản,
Hãy gọi Kim-hoa học-sĩ vào)

Và như:

宴 罷 龍 摟 詩 力 倦
Yến bãi long lâu thi lực quyện
六 更 留 待 曉 眠 遲
Lục canh lưu đãi hiểu miên trì
(Tiệc cạn lầu rồng sức thơ mỏi,
Canh dài giữ đợi giấc nằm trưa).

Sĩ quân-tử ở trong danh-giáo, thiếu gì thú vui hà tất lại lấy không làm có, trỏ phải ra quấy, đem chữ nghĩa ra mà đùa-cợt như vậy.

Ông khách nói:

— Nào có một mình phu-nhân như thế đâu! Xưa nay những người trinh-liệt bị ngòi bút trào-phúng làm cho bực mình biết bao nhiêu mà kể. Xem như Hằng-Nga là tiên trên nguyệt-điện có kẻ vịnh thơ như thế này:

姮 娥 應 悔 偷 靈 藥
Hằng-Nga ưng hối thâu linh dược
碧 海 青 天 夜 夜 心
Bích hải thanh-thiên dạ-dạ tăm
(Hằng-nga hối trót ăn linhdược[10],
Tẻ lạnh trời cao đêm lại đêm)

Lộng-Ngọc là gái phi-thăng, có kẻ vịnh thơ như thế này:

如 何 後 日 秦 臺 夢
Như hà hậu nhật Tần đài mộng
不 見 蕭 郎 見 沈 郎
Bất kiến Tiêu lang-kiến Thẩm-lang
(Tần-đài sau giấc mơ sau đó,
Không thấy Tiêu-lang, thấy Thẩm-lang[11]

Vào cửa hầu thì nói mượn Lục-Châu[12], mỉa họ Vũ thì chuyện vu Hậu-thổ[13]. Toàn những giọng nói xằng buộc nhảm. Ước sao đem được dòng nước sông Lô để vì người xưa gột rửa những bài thơ xú-ác ấy đi.

Phu-nhân thu nước mắt rồi nói:

— Không có tiên-sinh biết cho, có lẽ tôi thành một hòn ngọc khuê có dấu vết, lấy gì mài cho sáng, giũa cho sạch được. Song đêm đẹp dễ qua, tiệc vui khó kiếm. Bữa nay vợ chồng tôi cùng tiên-sinh hội ngộ, chúng ta chẳng nói những chuyện ấy nữa, chỉ thêm buồn vô ích mà thôi.

Nhân đến thơ văn bản-triều, ông khách nói:

— Thơ ông Chuyết-Am[14] kỳ lạ mà tiêu-tao, thơ ông Vu-Liêu[15] tuấn-tiễu mà khích-thích, thơ ông Tùng-Xuyên[16] như chàng trai xông trận, có vẻ sấn-sổ, thơ ông Cúc-Pha[17] như cô gái chơi xuân, có vẻ mềm yếu. Đến như ông Đỗ ở Kim-hoa[18], ông Trần ở Ngọc-tái[19], ông Đàm ở Ông-mặc[20], ông Vũ ở Đường-an[21], không phải là không ngang-dọc tung-hoành, nhưng cầu lấy lời chín lẽ tới, có thể khiến cho làng phong-nhã phải phục thì chỉ duy những bài đầy lời trung-ái của ông Nguyễn Ức-Trai[22], lòng lúc nào cũng chẳng quên vua, có thể chen vào môn hộ của Đỗ Thiếu-Lăng được. Còn đến giọng thơ biến-hóa được khói mây, lời thơ quan-hệ đến phong-giáo, thì lão-phu đây cũng chẳng chịu kém thua ai mấy.

Câu chuyện như vậy có thể chép ra đến 4, 5 nghìn chữ, nhưng Tử-Biên không thể nhớ hết. Chàng đứng nghe lóng ở kẽ vách đến một hồi lâu. Bỗng chàng để có tiếng động sột-sạt, bị ông khách nhận thấy. Ông nói:

— Cuộc hội-họp hôm nay thật là hiếm được, vậy mà tựa như có người nghe trộm. Những câu chuyện phong-lưu của chúng mình, sợ bị họ đem phao truyền ra. Tiên-sinh không thấy biết gì ư?

Phu-nhân nói:

— Thì đến những kẻ nho-sinh cầm bút sau này họ cho chúng mình là bàn xằng nói nhảm là cùng chứ gì, có hề chi sự ấy.

Tử-Biên chẳng biết là ý nói thế nào, chàng rảo bước đi vào, phục lạy ở trước chỗ ba người ngồi chơi và hỏi về thi-tứ. Ông khách liền rút ở trong lòng ra một quyển sách, ước trăm trang giấy, trao cho chàng mà bảo:

— Cứ về mà giở quyển này ra, sẽ tha hồ học, bất tất phải tìm ở tập nào khác nữa.

Một lúc sau bầu nghiêng chén cạn, chủ khách vái chào từ-giã nhau. Ông khách ra rồi, Tử-Biên cũng đi nằm ngủ. Đến lúc mặc trời đã mọc, chàng ngồi vùng dậy, té ra thấy mình nằm trên cỏ, áo đầm những sương, chỉ có đông tây hai ngôi mộ nhà ai nằm đó. Mở quyển sách ra xem thấy toàn là những giấy trắng, chỉ có bốn chữ « Lã-đường thi-tập », nét mực còn óng-ánh chưa khô. Bấy giờ chàng mới hiểu ông khách ấy, tức là Lã-đường Sái tiên-sinh[23] và hỏi thăm người ở đây, mới biết hai mộ này là mộ vợ chồng quan Giáo-thụ họ Phù[24].

Tử-Biên bèn tìm đến làng Sái tiên-sinh, dò hỏi di-cảo tập thơ Lã-đường, thấy gián nhấm mọt gặm, tản-mác mất cả. Chàng nhân đi khắp xa gần để hỏi-han, hết sức cóp-nhặt, dù nửa câu, một chữ cũng không bỏ sót. Cho nên từ khi triều Lê dựng nghiệp, thi-sĩ có đến hơn trăm nhà, mà duy tập thơ của ông Sái thịnh-hành, đại-khái đều do công sức của Mao Tử-Biên cả.

   




Chú thích

  1. Huyện Kim-hoa thuộc xứ Kinh-bắc, nay là huyện Kim-anh thuộc tỉnh Phúc-yên. Chi-Lan lấy ông học-sĩ Phù Thúc-Hoành người làng Phù-lỗ huyện ấy. Có sách nói nàng tên là: Nguyễn Hạ-Huệ.
  2. Niên-hiệu của vua Lê Uy-Mục.
  3. Phan Đại-Lâm đời Tống tự là Phần-Lão, đêm mưa làm thơ, vì có người đến thúc thuế, cụt hứng phải bỏ dở.
  4. Rượu La-phù.
  5. Ở làng Vệ-linh huyện Kim-anh tỉnh Phúc-yên bây giờ.
  6. Tên khúc nhạc trên trời; ý nói đêm đêm thường chiêm-bao lên chốn cung trời, gặp vua và nghe những khúc nhạc trên trời.
  7. Vua Hoàng-đế mất táng ở Kiều-sơn.
  8. Phú Cao-đường của Tống Ngọc nước Sở.
  9. Ca Thất-tịch của Trương Lỗi đời Tống.
  10. Sách Tàu nói: Hằng-Nga là vợ Hậu-Nghệ, lấy trộm thuốc trường-sinh của Vương-mẫu mà nuốt, thành tiên bay lên ở cung trăng. Câu thơ này là của Lý Nghĩa Sơn đời Đường.
  11. Lộng-Ngọc là con gái Tần Mục-công, vợ Tiêu-Sử, sách nói hai người đều thành tiên lên trời. Sách « Thiên hạ dị kỷ» lại chép chuyện Thẩm A-Chi trong năm Thái hòa đời Đường, một đêm ngủ ở nhà trọ, chiêm bao thấy Tần Mục-công nói Tiêu-Sử đã chết, đem Lộng-Ngọc gả cho Thẩm, ở với nhau được một năm thì Lộng-Ngọc cũng lại chết, tỉnh dậy té ra là chiêm bao.
  12. Lục-Châu là vợ lẽ của Thạch-Sùng, khi bị Triệu-vương Luân cưỡng-bức lấy về, nàng từ trên lầu gieo đầu xuống tự-tử. Thôi-Giao khi thương-tiếc người tình bị bán vào nhà quan Liên-súy Vu-Địch, có câu thơ: « Lục-Châu thùy lệ tháp la cân», nghĩa là: «Lục-Châu tuôn lệ ướt khăn là».
  13. Đời Đường, bà Vũ-hậu lên chiếm ngôi vua của con. Bà có tính hoang-dâm. Người bấy giờ mới đặt ra một câu chuyện bà thần Hậu-thổ nằm với trai là Vi An-Đạo, cốt để nói mánh Vũ-hậu.
  14. Ông Lý Tử-Tấn hiệu Chuyết-Am, người làng Triều-đông, huyện Thượng-phúc (Thường-tín Hà-đông) đỗ khoa Canh-thìn (1400) đời nhà Hồ, sau làm quan nhà Lê đến chức Hàn-lâm.
  15. Ông Trạng-nguyên Nguyễn Trực, người huyện Thanh-oai, có tập thơ Vu-Liêu.
  16. Chưa rõ là ai.
  17. Ông Nguyễn Mộng-Tuân người làng Phủ-lý huyện Đông-sơn, Thanh-hóa, đỗ khoa Canh-thìn (1400) đời nhà Hồ làm quan nhà Lê đến Tả Nạp-ngôn, Khinh-xa đô-úy, có tập thơ Cúc-Pha.
  18. Ông Đỗ-Nhuận, người làng Kim-hoa huyện Kim-hoa (nay là Kim-anh), đỗ tấn-sĩ đời Quang-thuận, quan đến Đông-các đại-học-sĩ, sung làm phó nguyên-súy trong hội Tao-đàn của vua Lê Thánh-tôn.
  19. Chưa rõ.
  20. Ông Đàm Thận-Huy, người làng Ôn-mặc huyện Đông-ngạn Bắc-ninh, đỗ tiến-sĩ đời Hồng-đức, quan đến Thượng-thư. Gặp khi Mạc cướp ngôi Lê, ông uống thuốc độc tự-tận.
  21. Ông Vũ-Quỳnh đỗ hoàng-giáp đời Hồng-đức, quan đến Thượng-thư.
  22. Tức ông Nguyễn Trãi.
  23. Ông họ Sái tên Thuận, người làng Liễu-lâm huyện Siêu-loại (Thuận-thành Bắc-ninh) đỗ Tấn-sĩ năm Hồng-đức thứ 6, làm quan ở quán-các hơn 20 năm, sau ra Tham-chính Hải-dương. Tập thơ Lã-đường của ông do con trai là Sái-Khác và học-trò là Đỗ Chính-Mô sưu-tập lại.
  24. Ông Phù Thúc-Hoành có làm chức giáo-thụ kinh Dịch ở trường Quốc-tử-giám, sau được thụ chức Hàn-lâm học-sĩ.