CHUYỆN LỆ-NƯƠNG


Nguyễn Thị-Diễm là người một họ lớn ở huyện Đông-sơn (Thanh-hóa) em họ ngoại của Trần Khát-Chân; cùng người đàn-bà họ Lý quê ở huyện Cẩm-giang (Hải-dương) cùng mở ngôi hàng bán phấn đối cửa nhau tại bên ngoài thành Tây-đô (Thanh-hóa). Xóm-giềng gần-gặn, tình-nghĩa ngày một thân, nhưng cả hai đều chưa con cái. Một hôm, đến động Hồ-công[1] làm lễ cầu tự, Lý-thị bảo với Nguyễn-thị rằng:

— Chúng ta ở trong phố vẫn quen thân nhau, việc đi lễ cầu-tự hôm nay lại không hẹn mà cùng giống nhau. Nếu mà hương-lửa có duyên, sau này ta sẽ cho các con sánh nên đôi lứa. Bình-dân ta lại làm bạn với bình-dân, chẳng cần phải kén chọn con ông cháu cha gì cả; nói có Sơn-thần chứng dám, tôi quyết không sai lời.

Rồi đó Nguyễn-thị quả sinh con gái đặt tên là Lệ-nương, Lý-thị quả sinh con trai đặt tên là Phật-sinh. Hai trẻ đến khi trưởng-thành, đều ham nghề nghiên-bút. Vì cớ hai bên cha mẹ thân-mật, nên họ cùng đi lại với nhau suồng-sã, thường cùng nhau xướng-họa thơ từ. Tuy kỳ cưới xin chưa định, nhưng hai tình gắn-bó, đã chẳng khác chi vợ chồng vậy.

Niên-hiệu Kiến-tân năm Kỷ-mão (1399) đời Trần, xảy ra cái vạ Trần Khát-Châu[2], Lệ-nương bị bắt vào trong cung, Phật-sinh rất là thất vọng. Gặp đêm trừ-tịch, gần hết canh năm, sinh còn đương nằm ngủ, chợt nghe có tiếng ấm ới. Sinh vùng-dậy đẩy cửa ra xem, thấy có hơn trăm chiếc kiệu hoa rậm-rịch đi qua, và có một bức thư bằng lụa cài vào ngưỡng cửa, trong thư chính là bút tích của Lệ-nương đã viết. Thư rằng:

妾 聞 有 陰 陽 天 道 以 之 而 備
Thiếp văn, thiên hữu âm-dương, thiên đạo dĩ chi nhi bị,
人 有 夫 婦 人 道 以 之 而 成
Nhân hữu phu phụ, nhân đạo dĩ chi nhi thành.
嗟 我 何 脩
Ta ngã hà tu?
與 君 不 偶
Dữ quân bất ngẫu
昔 時 心 事 久 已 相 關
Tích thời tâm sự, cửu dĩ tương quan,
今 日 仳 離 翻 成 永 感
Kim nhật ty ly, phiên thành vĩnh cảm
竟 落 樓 前 之 影
Cánh lạc lâu tiền chi ảnh
長 緘 院 裡 之 春
Trường giam viện lý chi xuân.
每 怕 鏡 舞 離 鸞
Mỗi phạ kính vũ ly hoan
琴 操 別 鶴
Cầm thao biệt hạc

春 城 日 暮 柳 斜 寒 食 東 風
Xuân thành nhật mộ, liễu tà hàn thực đông phong.
流 水 御 溝 腸 斷 上 陽 宮 女
Lưu thủy ngự câu, tràng đoạn Thượng-dương cung nữ.
但 有 幽 愁 種 種
Đãn hữu u sầu chủng chủng,
清 淚 波 波
Thanh lệ ba ba
悵 宿 願 之 多 違
Chướng túc nguyện chi đa vi
笑 此 生 之 浪 度
Tiếu thử sinh chi lãng độ
柳 氏 重 歸 之 約 好 會 難 期
Liễu thị trùng quy chi ước, hảo hội nan kỳ,
玉 蕭 再 合 之 緣 他 生 未 卜
Ngọc tiêu tái hợp chi duyên, tha sinh vị bốc,
願 君 自 愛
Nguyện quân tự ái
別 締 良 媒
Biệt đế lương môi,
無 以 一 日 之 恩
Vô dĩ nhất nhật chi ân
而 誤 百 年 之 計
Nhi ngộ bách niên chi kế
悠 悠 心 緒
Du du tâm tự
書 不 盡 言
Thư bất tận ngôn
未 得 鈞 㫖
Vi đắc quân chỉ
先 此 申 覆
Tiên thử thân phúc

Dịch nghĩa:

Thiếp nghe:
Trời có âm dương, đạo trời mới đủ,
Người có chồng vợ, đạo người mới thành.
Đôi ta vì đâu?
Lỡ-làng đến vậy!
Tâm tình buổi trước, đã kết mối dây,
Ly-biệt ngày nay, bao khuây nguồn cảm.
Bóng trước lầu đã rụng,
Xuân trong viện đành giam,
Những e, gương ly loan bóng múa hững-hờ[3].
Đàn biệt hạc tiếng vang ai oán[4],
Thành xuân trời tối, liễu lả cành dưới ngọn đông phong[5],
Ngòi ngự nước trôi, ruột đứt khúc bao người cung-nữ[6]
Luống những, mạch sầu đợt-đợt,
Sóng lệ trùng-trùng,
Nguyền xưa tan-nát nghĩ mà đau,
Kiếp ấy lỡ-làng sinh cũng uổng,

Ước Liễu-thị mong gì hảo-hội[7]
Duyên Ngọc-Tiêu đâu chắc tái-sinh[8]
Xin chàng trân-trọng lấy mình,
Liệu kết nhân-duyên chốn khác.
Đừng vì tình một buổi,
Để lỡ kế trăm năm.
Man-mác nỗi lòng,
Thư không xiết tả.

Sinh được thư rất là đau-thương, bỏ cả ăn ngủ. Rồi vì cớ hôn-sự đã hỏng, bèn thiên ra ở ngoài miền đông. Nhưng nặng tình với Lệ-nương, sinh chưa nỡ lấy ai cả.

Cuối đời nhà Hồ, tướng Minh là Trương-Phụ chia binh vào cướp, lấn chiếm Kinh-Kỳ. Sinh nghe Hán-Thương phải chạy, đoán chắc là Lệ-nương cũng phải đi theo, bèn từ-biệt mẹ đi vào nam, mong được gặp mặt. Lặn-lội hàng tuần mới đến cửa bể Thần-phù, nghe tướng giặc Lã-Nghị bắt cướp mấy trăm phụ-nữ hiện đóng giữ ở phủ Thiên-trường trơ-trọi không có quân ứng viện. Sinh đoán chắc Lệ-nương cũng ở trong ấy. Nhưng đất khách tay không, chẳng làm gì được. Chợt gặp khi vua Giản-địnhn ổi quân lên ở châu Trường-an, nhưng vì ít binh không địch nổi với số nhiều của quân giặc. Sinh muốn nhờ thế quân của vua, đánh úp mà cướp lại Lệ-nương, bèn đến trước ngựa dâng một bài sách, đại-lược rằng:

臣 聞 拯 渙 成 功 固 因 興 運
Thần văn: Chửng hoán thành công, cố nhân hưng vận.
禦 戎 得 策 實 本 廟 謨
Ngữ nhung đắc sách, thực bản miếu mô
故 攻 人 必 審 於 致 人
Cố công nhân tất thẩm ư trí nhân,
而 破 敵 當 明 乎 料 敵
Nhi phá địch đương minh hồ liệu địch
昨 者 胡 朝 失 御
Tạc giả Hồ triều thất ngự
吳 子 生 心
Ngô tử sinh tâm
韓 觀 乘 狐 托 之 威 蝸 爭 遠 繳
Hàn Quán thừa hồ thác chi uy, oa tranh viễn khiếu.
沐 晟 逞 䲭 張 之 惡 蜂 螫 郊 畿
Mộc Thạnh sính chi trương chi ác, phong thích giao kỳ.
致 令 百 餘 年 安 樂 之 區
Trí linh bách dư niên an lạc chi khu
轉 作 數 十 合 紛 拏 之 地
Chuyển tác sổ thập hợp phân nô chi địa
析 骸 供 爨
Tích hài cung thoán
粉 骨 爲 粮
Phấn cốt vi hương

沿 河 之 億 萬 生 靈 誰 無 切 齒
Duyên hà chi ức vạn sinh linh thùy vô thiết sỉ.
據 郡 之 四 方 豪 傑 咸 有 戰 心
Cứ quận chi tứ phương hào-kiệt, hàm hữu chiến tâm.
必 須 撥 亂 宏 材
Tất tu bát loạn hoành tài
方 建 扶 顛 偉 績
Phương kiến phù điên vĩ tích
今 大 王 憤 陳 家 之 不 造
Kim đại-vương phẫn Trần gia chi bất tạo,
奮 夏 旅 以 圖 回
Phấn Hạ lữ dĩ đồ hồi
持 二 千 不 滿 之 兵
Trì nhị thiên bất mãn chi binh
當 五 道 莫 强 之 寇
Đương ngũ đạo mạc cường chi khấu
雷 轟 電 掣 從 天 之 勢 方 張
Lôi oanh điện xiết, tòng thiên chi thế phương trương
霧 朗 雲 清 復 土 之 功 可 必
Vụ lãng vân thanh, phục thổ chi công khả tất
方 望 還 都 而 陟 迹
Phương vọng hoàn đô nhi trắc tích,
如 何 遇 敵 以 班 師
Như hà ngộ địch dĩ ban sư
固 宜 招 鄧 悉 於 演 州
Cố nghi chiêu Đặng Tất ư Diễn-châu
留 肇 基 於 謨 渡
Lưu Triệu Cơ ư Mô-độ
海 道 犀 舟 勁 掉 直 抵 平 灘
Hải đạo tê chu kính trạo, trực để Bình-than.

步 軍 長 轂 高 鋒 徑 趨 鹹 子
Bộ quân trường cốc, cao phong, kính xu Hàm -tử
或 命 將 以 扼 木 丸 之 口
Hoặc mệnh tướng dĩ ách Mộc-hoàn chi khẩu
或 分 兵 以 撞 古 弄 之 城
Hoặc phân binh dĩ chàng Cổ-lộng chi thành
鯁 賊 牙 於 白 鶴 灣 頭 無 令 轉 食
Ngạnh tặc nha ư Bạch-hạc loan-đầu, vô linh chuyển thực,
植 樁 木 於 幔 幬 津 尾 用 遏 奔 波
Thực thung mộc ư Man-trù tân vĩ, dụng át bôn-ba
陸 勿 容 方 軌 之 車
Lục vật dung phương quỹ chi xa
水 莫 共 長 江 之 險
Thủy mạc cộng trường-gian chi hiểm
夜 則 燃 芻 相 接
Dạ tắc nhiên sô tương tiếp
晝 則 桴 鼓 相 聞
Chú tắc phù cổ tương văn
西 都 之 形 勢 旣 張
Tây-đô chi hình thế ký trương
東 土 之 籓 維 自 固
Đông thổ chi phiên duy tự cố
將 見 韓 攻 則 趙 應
Tương kiến Hàn-công tắc Triệu-ứng,
從 合 則 衡 孤
Tung hợp tắc hoành cô
我 轉 戰 而 無 前 師 行 席 上
Ngã chuyển chiến nhi vô tiền, sư hành tịch thượng.
彼 扶 傷 而 不 暇 敗 在 眼 中
Bỉ phù thương nhi bất hạ, bại tại nhỡn trung

縱 猶 豫 而 孤 疑
Túng do dự nhi hồ nghi
恐 狗 噍 而 鼠 竄
Khủng cẩu tiều nhi thử thoán
時 難 再 得
Thời nan tái đắc
王 請 勿 疑
Vương thỉnh vật nghi
復 望
Phục vọng
樹 漢 之 旗
Thụ Hán chi kỳ
反 唐 之 旆
Phản Đường chi bái
吾 軍 霆 擊 倘 同 時 合 力 以 併 攻
Ngô quân đình kích, thoảng đồng thời hợp lực dĩ tinh công
彼 虜 天 亡 將 匹 馬 隻 輪 之 不 返
Bỉ lổ thiên vong, tương sất mã trích luân chi bất phản

Dịch nghĩa:

Thần nghe:
Dẹp loạn thành công, vẫn nhờ vận tốt,
Chống giặc đắc sách, thực bởi mưu cao.
Nên đánh người, cần biết cách nhử người.
Mà phá giặc phải sáng bề liệu giặc.
Dạo trước, triều Hồ đổ sập,
Giặc Ngô tràn-lan,
Hàn Quán kia cáo mượn oai thiêng, oai tranh bờ cõi[9]

Mộc-Thạnh nọ diều giương mỏ độc, ong đốt kinh kỳ,
Khiến cho đất nước hơn trăm năm yên vui,
Biến thành khu-vực mấy trăm dặm rối loạn.
Đập xương làm củi
Tán xác làm lương
Men dải sông ức vạn sinh linh, nghiến răng tức-tối,
Giữ các quận bốn phương hào-kiệt, tuốt kiếm hằm-hè,
Lược-thao phải có tài hùng,
Chống đỡ mới nên công lớn.
Đại-vương nay,
Buồn vận Trần gặp cơn truân-bĩ,
Nổi quân Hạ[10] mưu cuộc trùng-hưng.
Cầm đội quân chẳng đủ hai nghìn,
Chống đám giặc có thừa năm đạo.
Sấm ran chớp giật, tự lưng trời thế mạnh vừa buông,
Mù tạnh mây quang, lấy lại đất công to sắp dựng
Những tưởng về kinh xây nghiệp cũ.
Vì sao gặp giặc rút quân lui?
Rất nên, vời Đặng Tất ở Diễn-châu.
Lưu Triệu Cơ ở Mô-độ.
Đường bể thuyền bền chèo cứng, đến thẳng Bnh-than
Quân bộ xe rộng giáo dài, tới mau Hàm-tử.
Hoặc sai tướng chẹn cửa Mộc-hoàn nọ,
Hoặc chia binh đánh thành Cổ-lộng kia.

Đầu sông Bạch-hạc, ghè nanh cho giặc hết đường ăn
Cuối bến Mạn-trù[11], đóng cọc cho giặc hết lối chạy.
Dưới nước không cho chỗ nào cứ hiểm,
Trên cạn không để xe nào sóng đôi.
Ngày đánh trống để truyền tin,
Đêm đốt lửa để báo hiệu.
Hình-thế Tây-đô đã vững,
Phên rào Đông-thổ phải bền.
Sẽ thấy Hàn bị đánh mà Triệu phải hàng,
Tung đã hợp thì Hoành phải vỡ[12]
Ta ruổi-giong thực gắp, tiến chẳng ngừng chân,
Giặc ứng-tiếp không rồi, thua trong chớp mắt.
Nếu mình mà hồ-nghi do-dự,
Sợ giặc sẽ chó chạy chuột chui.
Dịp tốt không hai,
Xin Vương quyết đoán.
Kính mong,
Dựng cờ nước Hán[13],
Về phướn nhà Đường[14],

Chớp-nhoáng quân ta, các đội các cơ hợp đánh,
Ngói tan thế giặc, chiếc xe chiếc ngựa không còn.

Bài sách ấy dâng lên, vua Giản-định xem mà khen là người giỏi, cấp cho năm trăm quân, sai đi đánh phủ Thiên-trường. Sinh khảng-khái thề quân, dụ-bảo họ về sự hưng-phục nghiệp Trần, ai nấy đều hăng-hái hăm-hở. Bèn nhân nước thủy triều đương đêm tiến đánh, Lã-Nghị quả-nhiên phải nhổ trại chạy trốn, lùi lên phía bắc đóng ở Xương-giang. Phá luôn một trận nữa, giặc phải lùi lên trạm Bắc-nga thuộc về Lạng-sơn. Sinh lại đóng án-ngữ ở cửa Quỷ-môn, lần-lượt vận-tải binh lương đến.

Chợt ở Yên-kinh có chiếu-thư rút quân ban xuống, Trương-Phụ đốc xuất các quân sắp-sửa kéo về. Sinh vốn vì sự tìm vợ mà đến đây, không phải có chí lập công, nay nghe quân Tàu sắp rút về, bèn cùng các tướng-sĩ chia tay từ-biệt, lần đến trạm Bắc-nga vào một buổi tối. Bấy giờ nhà trạm vắng tanh, không có ai mà hỏi-han cả. Chợt gặp một bà-già, hỏi thăm thì bà cau mày bảo:

— Đây là chỗ quân đóng vừa rồi, đầy những sát khí, trời lại đã tối, chàng ở đâu đến đây mà giờ chưa tìm vào nhà trọ?

Sinh rầu-rĩ kể rõ sự mình, bà-già nói:

— Tội-nghiệp! quả có người họ tên và trạc tuổi như lời chàng nói, nhưng chẳng may đã chết oan rồi.

Sinh giật mình hỏi, bà-già nói:

— Trước đây năm hôm, quân Tàu sắp rút, người đàn bà họ Nguyễn ấy bảo với hai bà phu-nhân họ Chu họ Trịnh rằng: « Bọn chúng ta vóc mềm tựa liễu, mệnh bạc như vôi, nước vỡ nhà tan, lưu-ly đến đó. Nay nếu lại theo họ sang qua cửa ải, tức là đến nước non quê người. Chẳng thà chết dấp ở ngòi lạch, gần-gũi quê-hương, còn hờn là sang làm những cái cô-hồn ở bên đất Bắc ». Thế rồi mấy người đều cùng nhau tự-tận. Tướng Tàu thương là có tiết-tháo, dùng lễ mà táng ở trong rừng.

Nói xong, bà-già đưa sinh đến, trỏ từng ngôi mộ cho biết và bảo:

— Trinh-thuần cương-liệt, ấy chỉ có mấy người này, còn thì đều bị nhuốc-nhơ cả.

Sinh đau-thương vô hạn. Đêm hôm ấy chàng ngủ ở mộ, khóc mà nói rằng:

— Ta vì nàng mà từ xa đến đây, nàng có thể cùng ta gặp-gỡ trong giấc chiêm-bao để cho ta một lời yên-ủi hay không?

Đêm đến canh ba, sinh quả thấy Lệ-nương lững-thững đi đến, khóc kể rằng:

Thiếp vốn con nhà tầm-thường,
Chàng quá rủ lòng yêu-mến
Trướng gấm nọ duyên chưa đầm-ấm,
Giá xuân[15] kia phận đã mỏng-manh.
Thời với chí ngửa-nghiêng,
Thiếp cùng chàng ly-cách,
Hờn ôm lầu đỏ, từng trải hôm mai,
Mối dứt chim xanh, khôn thông tin-tức.
Ngày tháng lữa-lần trộm sống,
Dong-quang mòn-mỏi riêng buồn.
Nào hay mỏ đỏ ca tàn[16],

Má hồng vạ nổi,
Ngựa Hồ bình Triệu, giày-xéo tan-tành
Liễu điện hoa cung, bẻ vin xơ-xác.
Ngán nỗi thân tàn nhiều lỡ-dở,
Than ôi vận ách mỗi chồng thêm.
Trước đã không vẹn tiết để theo chồng,
Sau lại nỡ cam tâm mà hàng giặc.
Gửi chiếc thân ở trong muôn chết,
Trải một ngày như thể ba thu.
Lặn suối trèo đèo,
Qua nguy vượt hiểm.
Ép duyên toan nhắm mắt, giống sói khôn gần.
Qua ải muốn đưa chân, núi hồ[17] dễ cảm.
Bởi vậy, không ham thú sống,
Chẳng sợ ngục tù,
Lạnh-lẽo trước đèn, hồn theo trống trận.
Bàng-hoàng quán khách, mình gửi khăn là.
Nay thì, linh-tính tuy còn,
Tàn hình đã khác.
Cảm lòng chàng từ xa tìm đến,
Buồn nỗi mình biết nói làm sao.
Dám tỏ niềm riêng,
Kính xin soi xét.

Nguyên văn

妾 出 自 凡 流
Thiếp xuất tự phàm lưu
過 蒙 厚 遇
Quá mông hậu ngộ

緣 未 諧 於 錦 帳
Duyên vị hài ư cẩm trướng
分 已 薄 於 春 冰
Phận dĩ bạc ư xuân băng
時 與 志 而 俱 違
Thời dữ chí nhi câu vi
妾 辭 君 而 遠 逝
Thiếp từ quân nhi viễn thệ
朱 樓 有 恨 幾 對 斜 暉
Chu lâu hữu hận, kỷ đối tà huy
青 鳥 無 媒 誰 相 來 信
Thanh điểu vô môi, thùy tương-lai tín?
帳 容 光 之 减 舊
Trướng dong quang chi giảm cựu
度 歲 月 以 偷 生
Độ tuế nguyệt dĩ thâu sinh
誰 料 赤 嘴 歌 殘
Thùy liệu xích trủy ca tàn
紅 顏 禍 起
Hồng nhan họa khởi
燕 兵 胡 騎 莫 遏 侵 陵
Yên binh Hồ kỵ mạc át xâm lăng
禁 柳 宮 花 幾 愁 攀 折
Cầm liễu cung hoa, kỷ sầu phan chiết
帳 殘 軀 之 多 誤
Trướng tàn khu chi đa ngộ
嗟 厄 運 之 重 遭
Ta ách vận chi trùng tao
始 不 能 全 節 以 從 夫
Thủy bất năng toàn tiết dĩ tòng phu
終 又 忍 甘 心 而 降 虜
Chung hựu nhẫn cam tâm nhi hàng lỗ

寄 隻 身 於 萬 死
Ký chích thân ư vạn tử
度 一 日 如 三 秋
Độ nhất nhật như tam thu
涉 水 踰 山
Thiệp thủy du sơn
備 艱 嘗 險
Bị gian thường hiểm
將 隨 緣 而 苟 合 則 狼 子 難 馴
Tương tùy duyên nhi cẩu hợp, tắc lang tử nan tuần
欲 出 塞 以 遙 征 則 狐 丘 易 感
Dục xuất tái dĩ dao chinh, tắc hồ khâu dị cảm
是 以 不 貪 生 活
Thị dĩ bất tham sinh hoạt
不 怕 拘 囚
Bất phạ câu tù
冷 落 燈 前 魂 隨 戰 鼓
Lãnh lạc đăng tiền hồn tùy chiến cổ
蒼 黄 客 裡 命 寄 羅 巾
Thương hoàng khách lý mệnh ký la cân
今 則 靈 性 雖 存
Kim tắc linh tính tuy tồn
殘 骸 非 舊
Tàn hài phi cựu
愧 良 人 之 遠 訪
Quý lương nhân chi viễn phóng
撫 往 事 以 長 嗟
Phủ vãng sự dĩ trường ta
敢 述 幽 懷
Cảm thuật u hoài
幸 垂 知 悉
Hạnh thùy tri tất

Vợ chồng bèn cùng nhau âu-yếm chuyện trò, y như lúc sống. Sinh nói:

— Nàng đã không may, vậy anh đem linh-thấn về, khỏi uổng một chuyến đi không lại trở về rồi.

Nàng nói:

— Thiếp rất cảm tấm thâm-tình ấy. Song thiếp cùng hai vị mỹ-nhân gần-gụi lâu ngày, giao tình thân-mật, không nỡ một sớm bỏ đi. Phương chi chốn này nước non trong sáng, mây khói vật-vờ, thần yên phách yên, bất tất phiền chàng dời đổi nữa.

Sau khi gà-gáy ba hồi, hai người vội cùng nhau đứng dậy từ-biệt. Ngày hôm sau, sinh đem mấy lạng bạc, mua quan-tài và nước thơm, cải táng cho nàng và cả hai mỹ-nhân. Đêm sau mộng thấy ba người đến tạ ơn; chàng đương toan lại cùng trò chuyện thì thoắt-chốc cả ba đều biến mất.

Chàng buồn-rầu quay về, từ đấy không lấy ai nữa

Đến sau vua Lê Thái-tổ khởi nghĩa ở Lam-sơn, sinh vì mối hờn oán cũ, đem quân ứng-mộ, phàm gặp tướng-sĩ nhà Minh, đều chém giết dữ-dội cho hả. Cho nên vua Lê phá diệt quân Minh, sinh có dự nhiều công.

Lời bình

Than ôi! điều tín-ước gần với lẽ phải thì lời nói tất nên giữ đúng; nếu đối với lẽ phải mà chưa được ổn thì sự giữ đúng không cần. Như chàng họ Lý kia, vì mối ân-tình, giữ bền ước cũ, lưu-ly hoạn-nạn, vẫn chẳng quên lời, tình thật đáng thương, mà lẽ phải thì chưa được ổn. Bởi sao? Cảm-tình mà đi tìm thì nên, liều chết mà đi tìm thì không nên. Liều chết mà đi tìm còn không nên, huống lại thôi không lấy vợ, để đứt dòng-giống của tiên-nhân phỏng có nên không? Cho nên người quân-tử phải biết tòng quyền chứ không nên chấp nhất. Giữ điều nhỏ để mất điều lớn, chẳng là gã Lý-sinh này ư?

   




Chú thích

  1. Ở làng Thiên-vực huyện Vĩnh-lộc Thanh-hóa.
  2. Trần Khát Chân mưu giết Hồ Quý-Ly không thành bị Quý-Ly giết và bắt-bớ đến cả thân-tộc.
  3. Vua nước Kế-tân đặt một con loan muốn cho nó kêu, phu-nhân bảo: nghe nói loan thấy đồng-loại nó mới kêu, bèn đặt cái gương cho nó soi thì nó kêu ngay.
  4. Chàng mục-tử ở Thương-lăng lấy vợ, 5 năm không có con, cha mẹ định lấy vợ khác cho. Người vợ nghe tin, đương đêm khóc lóc. Mục-tử cảm-động làm ra một khúc hát biệt hạc.
  5. Câu thơ của Hàn-Hoành đời Đường. «Hàn thực đông-phong ngự liễu tà»: nghĩa là: tiết hàn-thực gió đông thổi, cây liễu trong vườn ngự lả cành.
  6. Chuyện Cố Huống đời Đường đề thơ thả ở ngòi ngự, trong có câu: «Thượng dương cung-nữ đoạn trường thì: lúc những cung-nữ ở cung Thượng-dương đau ruột».
  7. Chuyện nàng Liễu-thị với Hàn-Hoành đã có chua ở trên.
  8. Vi Cao ở đời Đường thủa nhỏ chơi đất Giang-hạ có tình với nàng Khương Ngọc-Tiêu. Lúc chia tay có hẹn chóng thì 5 năm, chậm thi 7 năm sẽ đến, lưu tặng một cái nhẫn ngọc và một bài thơ. Sau 7 năm Cao không đến, Ngọc-Tiêu nhịn ăn mà chết. Cao nghe tin thương xót, lập đàn tụng kinh siêu độ. Đêm chiêm bao thấy nàng hẹn sẽ thác sinh để làm nàng hầu. Sau Cao làm quan to, gặp ngày mở tiệc sinh-nhật, có người đem dâng một người con hát, cũng tên là Ngọc-Tiêu, ngón tay giữa có một vòng thịt y như hình chiếc nhẫn ngọc mình tặng ngày trước.
  9. Oa đây là oa-ngưu, giống động-vật nhỏ, hình tròn dẹt, mình mềm, đầu có sừng, ngọn sừng có mắt. Trang-tử nói có kẻ dựng nước ở sừng con oa-ngưu, ý nói sự bé nhỏ.
  10. Vua Thiếu-khang nổi quân dựng lại nghiệp trung-hưng của nhà Hạ.
  11. Bến sông Nhị thuộc phủ Khoái-châu Hưng-yên.
  12. Tung và Hoành là những kế-hoạch của các nước đời Chiến-quốc. Tung là kế liên-lạc các nước theo chiều dọc nước Tàu để chống nhà Tần. Hoành là kế các nước rời nhau quay đầu thờ Tần, theo chiều ngang.
  13. Hàn-Tín đánh Triệu, dùng quân kỳ binh, nhổ cờ Triệu, dựng cờ Hán (Hán sử).
  14. Vua Túc-tôn nhà Đường thu binh ở Linh-võ quay cờ tiến về phía đông để đánh giặc An-lộc-sơn (Đường-sử)
  15. Nước kết thành giá (băng), đến mùa xuân ấm-áp thì tan-rã ra.
  16. Mỏ đỏ, trỏ Hồ Quý Ly. Vua Trần Nghệ-tôn chiêm-bao thấy vua Duệ-tôn về, đọc một bài thơ trong có câu: trung gian duy hữu Xích trủy hầu, nghĩa là trong đó duy có tước hầu mỏ đỏ.
  17. Hồ là cáo. Tục-ngữ: cáo chết ba năm quay đầu về núi