CHUYỆN LÝ TƯỚNG-QUÂN


Vua Giản-Định nhà Hậu Trần lên ngôi ở Mô-độ[1], hào-kiệt bốn phương, gần xa hưởng-ứng, đều chiêu-tập đồ-đảng làm quân Cần-Vương. Người huyện Đông-thành là Lý Hữu-Chi cũng do chân một người làm ruộng nổi lên, tính vốn dữ-tợn nhưng có sức khoẻ, giỏi đánh trận. Quốc-công Đặng-Tất tiến-cử cho Lý được làm chức tướng-quân, sai cầm một cánh hương-binh đi đánh giặc. Quyền-vị đã cao, Lý bèn làm những việc trái phép, dựa lũ trộm cướp như lòng ruột, coi người nho-sĩ như cừu-thù, thích sắc-đẹp, ham tiền-tài, tham-lam không chán; lại tậu lắm ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng-nội để làm ao, dồn đuổi xóm-giềng cho rộng đất, đi kiếm những hoa kỳ, đá lạ từ bên huyện khác đem về. Người trong vùng phục-dịch nhọc-nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách, rất là khổ-sở, nhưng hắn vẫn điềm-nhiên không chút động tâm.

Bấy giờ có một ông thầy tướng-số đến cửa xin ăn và có thể nói được những việc họa phúc. Lý bảo xem tướng mình, ông thầy ấy nói:

— Lợi cho việc làm không gì bằng nói thẳng, khỏi được tật-bệnh không gì bằng thuốc đắng. Nếu ngài dong-nạp thì tôi sẽ nói hết lời. Đừng vì đắng miệng mà ghét-gủa khiến tôi phải e-dè kiêng-tránh mới được.

Lý nói:

— Được, không hề gì.

Ông thầy nói:

— Điều thiện-ác tích lâu sẽ rõ, sự báo-ứng không sai chút nào. Cho nên luận số trước phải luận lý, tướng diện không bằng tướng tâm. Nay Tướng-quân có dữ mà không lành, khinh người mà trọng của, mượn oai-quyền để làm bạo-ngược, buông tham-dục để thỏa ngông-cuồng, đã trái lòng trời, tất bị trời phạt, còn cách nào mà trốn khỏi tai-họa!

Lý cười:

— Ta đã có binh-lính, có đồn-lũy, tay không lúc nào rời qua-mâu, sức có thể đuổi kịp gió chớp, trời dù có giỏi cũng sẽ phải tránh ta không kịp, còn giáng họa cho ta sao được.

Thầy tướng nói:

— Tướng-quân cậy mình mạnh-giỏi chưa thể lấy lời nói để cho hiểu được, vậy tôi có chùm hạt châu nhỏ, xin đưa tướng-quân xem sẽ biết rõ dữ lành, tướng quân có bằng lòng xem không?

Nhân lấy chùm hạt châu ở trong tay áo ra. Lý trông xem, thấy trong đó có lò lửa, vạc sôi, bên cạnh có những người đầu quỷ ghê-gớm, hoặc cầm thừng chão, hoặc cầm dao cưa, mình thì đương bị gông-xiềng, bò khúm-núm ở bên vạc dầu, lấm-lét sợ-hãi. Hỏi có cách gì cứu-gỡ không, thì thầy tướng nói:

— Gốc ác đã sâu, mầm vạ sắp nẩy. Cái kế cần kíp ngày nay chỉ còn có đuổi hết hầu thiếp, phá hết vườn ao, trút bỏ binh-quyền, quy đầu phúc địa, tuy tội chưa thể khỏi được, nhưng cũng còn có thể giảm trong muôn một.

Lý ngẫm-nghĩ lúc lâu rồi nói:

— Thôi thầy ạ, tôi không thể làm như thế được. Có ai lại vì lo cái vạ sau này chưa chắc đã có, mà vứt bỏ những cái công-cuộc sắp thành làm hì-hục trong mấy năm bao giờ.

Sau đó hắn càng làm những sự dâm-cuồng, chém-giết, không kiêng-dè gì cả. Người mẹ tức-giận nói:

— Ưa sống ghét chết, ai ai cũng lòng, cớ sao mầy hay làm những sự giết-chóc như vậy. Không ngờ ta đến lúc tuổi già, lại phải trông thấy đứa con mắc phải hình-lục có ngày.

Người con trai Lý là Thúc-Khoản cũng thường can-ngăn cha luôn, nhưng Lý chứng nào vẫn giữ tật ấy. Năm 40 tuổi thì Lý chết ở nhà; ngoài đường-sá người ta bàn-bạc huyên-hoa, bảo với nhau rằng:

— Kẻ làm thiện thường phải chết về đao binh, kẻ làm ác lại được chết trong nhà cửa, đạo trời để đâu không biết!

Trước đây có người bản-châu là Nguyễn-Quỳ, khảng-khái chuộng điều khí-tiết, vốn cùng chơi thân với Thúc-Khoản, nhưng chết đã 3 năm nay rồi. Một hôm Thúc-Khoản đi chơi sớm, chợt gặp ở đường; Nguyễn-Quỳ bảo Thúc-Khoản rằng:

— Phụ thân anh sắp bị đem ra tra hỏi. Tôi vì quen thân với anh, nên đến bảo cho anh biết trước. Anh có muốn xem, tối mai tôi cho người đến đón, anh sẽ được xem. Nhưng xem rồi cần phải giữ kín. Nếu nói hở ra một lời thì tai-vạ sẽ lây sang đến tôi ngay.

Nói xong liền biến mất không thấy đâu nữa. Đến hẹn, Thúc-Khoản ngồi trong một buồng nhỏ ngóng đợi. Nửa đêm, quả thấy mấy người lính đầu ngựa đến đón tới một cung-điện lớn. Trên điện có một vì vua, bên cạnh đều những người áo sắt mũ đồng, tay cầm phủ-việt đồng-mác, dàn ra hàng lối đứng chầu-chực rất là nghiêm-túc. Chợt thấy 4 viên Phán-quan từ bên tả-vũ đi ra mà một viên tức là Nguyễn-Quỳ. Bốn viên này tay đều cầm thẻ, quỳ đọc ở trước án son. Một viên đọc:

— Viên quan kia tên là Mỗ ở đời cứng vuông, không kiêng-sợ kẻ quyền-quý; tước-vị càng cao, càng biết khiêm-nhường; rồi lại biết quên mình để chết vì việc nước, làm rạng-rỡ cho nước nhà. Thần xin tâu lên Đế-đình, cho người ấy được làm tiên.

Một viên nói:

— Ở nha kia có tên Mỗ, vốn người tham-bẩn, hối-lộ dập-dìu; lại lấy lộc-trật mà hợm-hĩnh ngông-nghênh, khinh-miệt những người có đức, chưa từng cất nhắc kẻ hiền-sĩ để giúp việc nước. Thần xin chuyển báo cho tòa Nam-tào tước bỏ tên ra.

Một viên nói:

— Ở châu kia có người họ Hà gắng sức làm thiện, hằng ngày trong nhà thường phải thiếu ăn; gần đây nhân sau hồi binh lửa, tật dịch nổi lên, người ấy lại cho đơn cấp thuốc, số người nhờ thế mà khỏi chết đến hơn môt nghìn. Thần muốn xin cho người ấy được thác sinh vào nhà có phúc, hưởng lộc ba đời, để báo cái ơn đã cứu sống cho nhiều người.

Một viên nói:

— Ở thôn kia có gã họ Đinh, bất mục với anh em, chẳng hòa với tôn-tộc, thừa dịp các cháu bé dại, chữa lại chúc thư để chiếm cướp lấy cả ruộng nương, khiến họ không còn có miếng đất cắm dùi. Thần muốn bắt người ấy phải thác sinh vào nhà kẻ hèn, đói khát, nằm vạ-vật ở ngòi rãnh, để bỏ với sự đã đi tranh cướp của người.

Đức vua đều y theo lời tâu.

Kế đó có một người áo đỏ, từ bên hữu-vu đi ra, cũng quỳ trước án mà tâu rằng:

— Công việc của sở thần coi giữ, có người họ Mỗ tên Mỗ, ngoan-ngu bất-pháp, giam-cầm trong ngục một năm nay chưa đem xét-xử. Nay xin được đem ra thỉnh-mệnh ở trước Vương-đình.

Nhân đọc một bản buộc tội như sau:

伙 聞 玄 黄 肇 判 分 陽 清 陰 濁 之 形
Phục văn huyền hoàng triệu phán, phân dương thanh âm trọc chi hình,
民 物 禀 生 有 善 惡 業 緣 之 異
Dân vật bẩm sinh, hữu ác nghiệp thiện duyên chi dị.
如 斯 種 種
Như tư chủng chủng
固 可 枚 枚
Cố khả mai mai
蓋 天 能 以 理 賦 人 不 能 使 人 皆 賢 聖
Cái thiên năng dĩ lý phú nhân, bất năng sử nhân dai hiền thánh.
人 能 以 身 率 性 不 能 無 性 或 昏 明
Nhân năng dĩ thân xuất tính, bất năng vô tính hoặc hôn minh.
故 有 倚 而 不 中
Cố hữu ỷ nhi bất trung
有 流 而 爲 惡
Hữu lưu nhi vi ác
吉 凶 之 動,判 然 牝 牡 驪 黄
Cát hung chi động, phán nhiên tẫn mẫu ly hoàng.
因 果 之 來,必 爾 形 聲 響 應
Nhân quả chi lai, tất nhĩ hình thanh hưởng ứng.

顧 此 理 本 來 顯 著
Cố thử lý bản lai hiển trứ
奈 夫 人 一 是 頑 愚
Nại phù nhất thị ngoan ngu.
競 起 怒 嗔
Cạnh khởi nộ sân
妄 生 物 我
Vọng sinh vật ngã
堙 河 落 井 汨 汨 河 深
Nhân hà lạc tỉnh, mịch mịch hà thâm
則 塹 填 坑 滔 滔 皆 是
Tắc tạm điền khanh, thao thao giai thị
幽 沉 至 此
U trầm chí thử
隕 越 堪 憐
Vẫn việt kham linh
此 九 天 垂 拔 度 之 科,將 警 迷 而 覺 暗
Thử cửu thiên thùy bạt độ chi khoa, tương cảnh mê nhi giác ám.
十 地 具 輪 迴 之 獄,欲 戒 往 而 懲 來
Thập địa cụ luân-hồi chi ngục, dục giới vãng nhi trừng lai.
過 而 弗 悛
Quá nhi phất thuận
刑 之 必 至
Hình chi tất chí
今 李 某 虫 沙 之 質
Kim Lý mỗ trùng sa chi chất
蟻 虱 之 驅
Nghĩ sắt chi khu
締 交 時 覆 雨 翻 雲
Đế giao thời phú vũ phiên vân

萌 心 處 妖 精 厲 鬼
Manh tâm xứ yêu tinh lệ quỷ
視 文 學 寔 同 枘 鑿
Thị văn học thực đồng nhuế tạc
重 貨 財 殆 若 丘 山
Trọng hóa tài đãi nhược khâu sơn
占 人 田 類 漢 紅 陽
Chiếm nhân điền loại Hán Hồng Dương
縦 虐 殺 邁 隋 楊 素
Túng ngược sát mại Tùy Dương Tố
人 扇 禍 較 豺 狼 猛 獸 有 加
Tường nhân phiến họa, hiệu sài lang mãnh thú hữu gia.
縦 欲 窮 奢 雖 溪 壑 丘 山 不 足
Túng dục cùng xa, tuy khê hác khâu sơn bất túc.
畢 竟 貪 心 所 使
Tất cánh tham tâm sở sử
真 是 奸 人 之 雄
Chân thị gian nhân chi hùng
盍 寘 嚴 條
Hạp chí nghiêm điều
用 懲 來 者
Dụng trừng lai giả

Dịch nghĩa:

Kính nghe:
Trời đất gây-dựng, chia ra hình âm đục dương trong.
Dân vật bẩm-sinh, khác ở chỗ duyên lành nghiệp dữ.
Biết bao sự-trạng
Khôn xiết kể bày.

Bởi, trời lấy lý phú cho người, sao được người đều hiền-thánh.
Người đem mình noi theo tính, khỏi đâu tính hoặc sáng-mờ[2].
Cho nên thiên lệch có người,
Hư tồi lắm kẻ.
Dữ-lành báo ứng, không lầm đực cái, đen vàng[3].
Nhân-quả rõ-ràng, giống hệt tiếng vang, hình bóng[4]
Ngẫm lẽ ấy vốn là rõ-rệt,
Nhưng con người thật quá ngoan-ngu.
Ghen tức nhiều điều,
Riêng tây lắm chuyện,
Chìm sông ngã giếng, đắm-đuối càng sâu.
Lấp giếng vùi hầm, xô-bồ đã lắm.
U-trầm đến vậy,
Đọa lạc càng thương.
Vì thế mà, trời có đường bạt-độ, tỉnh-thức người mê,
Đất có ngục luân-hồi, khuyên-răn kẻ xấu.
Lỗi mà chẳng đổi,
Tội ắt không dong.
Nay Lý mỗ, sâu cát thân hèn,
Kiến giun phận mọn.

Kết bạn thì mây mưa tráo-trở
Cư tâm thì yêu-quái gớm-ghê.
Văn-học xem khinh,
Bạc tiền coi trọng
Chiếm cướp ruộng người như Hồng Dương đời Hán[5].
Giết hại mạng người như Dương Tố đời Tùy[6]
Vu oan giá họa, so hùm-beo gấu-sói còn độc hơn
Cực nhục cùng xa, dù khe suối núi gò chưa đủ thỏa.
Chỉ bởi lòng tham sai khiến,
Thực tuồng gian-hoạt tuyệt vời.
Phải dùng phép nghiêm.
Làm răn kẻ khác.

Bản ấy tuyên đọc xong, thấy kẻ lại-dịch điệu Hữu-chi ra, đặt quỳ phủ-phục ở dưới cửa, lấy roi đánh rất dữ-dội, máu tươi bắn ra nhầy-nhợt. Hữu-Chi kêu rên giẫy-giụa, tỏ ra đau-đớn không chịu nổi. Chợt nghe trên điện nói:

— Chia buồng xét việc là bổn phận của lũ ngươi, cớ sao việc ấy lại để chậm đến một năm nay?

Người áo đỏ nói:

— Vì y tội ác chồng-chất, nên chưa dám đoán định một cách sốc nổi. Bữa nay tâu lên thì việc án mới thành.

Nhân tâu trình các tội như sau:

— Kẻ kia ghẹo vợ người, dâm con người, tội nên xử thế nào?

Đức vua nói:

— Đó là vì hắn đắm-chìm ở trong bể ái, nên lấy nước sôi rửa ruột để cho tình-dục không sinh.

Tả hữu liền lôi ra bỏ vào cái vạc đương sôi, thân-thể Hữu-Chi đều nát rữa ra cả. Rồi lấy nước thần sẽ rẩy, một lát Hữu-Chi lại trở lại lành-lặn như là người thường.

— Kẻ kia chiếm ruộng của người, phá sản của người nên xử thế nào?

— Đó là vì suối tham dìm nó, nên lấy lưỡi trủy-thủ moi ruột để cho lòng tham không nổi lên nữa.

Tả hữu liền rạch bụng moi hết gan ruột phủ tạng ra ngoài. Rồi lại lấy cành dương sẽ phất, một chốc thì thân-thể lại nguyên lành-lặn.

— Đến như phá mồ-mả của người đời xưa, hủy đạo thường với người ruột thịt, nên xử thế nào?

Đức vua im-lặng lúc lâu rồi nói:

— Đó là sự càn-dỡ không có chừng mực nào nữa, dù xử bằng những hình cây kiếm núi dao, nước đồng gậy sắt cũng chưa đủ thỏa. Vậy chỉ nên áp giải vào ngục Cửu-u lấy dây da chét lấy đầu, lấy dùi lửa đóng vào chân, chim cắt mổ vào ngực, rắn độc cắn vào bụng, trầm luân kiếp-kiếp, không bao giờ được ra khỏi.

Quỷ sứ liền vào lôi Hữu-Chi điệu đi. Bấy giờ Thúc-Khoản ở khe tường dòm thấy, khóc thất thanh đi. Mấy người quỷ-sứ liền lấy tay bưng miệng rồi đưa về nhà, ném chàng từ trên không xuống đất. Thúc-Khoản giật mình tỉnh dậy, thấy người nhà đương ngồi chung-quanh mà khóc, nói mình chết đã hai ngày rồi, chỉ vì thấy ngực hãy còn thoi-thóp và hơi nong-nóng, cho nên chưa dám đem chôn. Thúc-Khoản bèn ruồng bỏ vợ con, đem của-nả tán-cấp mọi người và đốt hết những văn-tự nợ, vào rừng hái thuốc tu-luyện. Câu chuyện ấy Thúc-Khoản giấu kín, chỉ có chàng và vài người bõ già được biết mà thôi, cho nên cũng ít truyền.


Lời bình

Than ôi! đạo trời chí công mà vô tư, lưới trời tuy thưa mà chẳng lọt, cho nên hoặc có người lúc sống khỏi vạ mà lúc chết bị hình. Song, chịu họa ở lúc sống, người đã không hiểu, phải tội ở lúc chết, người lại không hay; vì thế mà đời thường có lắm loạn-thần tặc-tử. Ví thử họ hiểu, họ hay thì dù bảo làm ác cũng không dám làm. Song Lý mỗ đã trông thấy và biết rõ rồi lại còn làm tệ hơn. Đó là người hư-tồi bậc nhất không chuyển-đổi được, không còn thể nói bàn gì nữa.

   




Chú thích

  1. Mô-độ thuộc huyện Yên-mô tỉnh Ninh-bình bây giờ. Ngày 12 tháng 10 năm Đinh-hợi (1407), vua Trần Giản-Định lên ngôi ở Mô-độ.
  2. Nói tính người ta sáng-suốt và mờ-tối khác nhau.
  3. Tần Mục-công sai Cửu Phương-Cao đi kén mua ngựa hay. Cao về bảo đã kén một con ngựa cái vàng; lúc dắt ngựa về thì lại là ngựa đực sắc đen, nhưng quả là ngựa tốt. Bá-Nhạc bảo là Cao chỉ chú ý cái tài bên trong của nó, nên không để ý đến bề ngoài.
  4. Nhân-quả theo nhau như tiếng với vang, hình với bóng theo nhau.
  5. Đời Hán Thành-đế, Hồng Dương Hầu Vương-Lập chiếm đất mở ruộng hàng mấy trăm khoảnh để đem bán lấy tiền rất đắt. Việc phát-giác ra phải truất.
  6. Dương Tố đời Tùy dùng binh hay có lối quyền lược, khi sắp ra quân, thường kiếm lỗi người mà giết chết hàng mấy trăm mạng, lúc lâm địch, sai vài ba trăm người xông vào hãm trận, hễ không thành công mà quay về, đều giết chết hết; sai loạt sau cũng xử như thế.