CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM-XƯƠNG


Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam-xương. Người đã thùy-mỵ nết-na, lại thêm có tư-dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương-sinh, mến vì dung-hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính hay ghen, đối với vợ phòng-ngừa thái quá. Nàng cũng giữ-gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà-nước có việc đi đánh Chiêm-thành, bắt đến nhiều lính tráng. Trương tuy là con nhà dòng, nhưng không có học, tên đã ghi trong sổ trai-tráng, phải ra sung binh loạt đầu. Lúc chàng ra đi, bà mẹ có dặn rằng:

— Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công-danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh-cách, phải biết giữ mình, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn, nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà, mới đỡ lo-lắng vì con được.

Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng thì rót chén rượu đầy tiễn chồng mà rằng:

— Lang-quân đi chuyến nầy, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn-hầu, trở về quê cũ, chỉ xin ngày về, mang theo được hai chữ bình-yên, thế là đủ rồi. Chỉn e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Ngày tháng lữa-lần, tin-hơi xa cách «Gió tây nổi khôn đường hồng tiện, xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa. Màn mưa trướng tuyết xông pha, nghĩ thêm lạnh-lẽo kẻ ra cõi ngoài... Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi, vì chàng thân thiếp lẻ-loi một bề...»

Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ.

Rồi đó chén đưa vừa cạn, vó ngựa thẳng bon, «bóng cờ tiếng trống xa-xa, sầu lên ngọn ải oán ra cửa phòng ». Bấy giờ nàng đã đương có thai, sau khi tương-biệt được mươi ngày thì sinh ra môt đứa con trai, đặt tên là thằng Đản.

Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm bay vườn thúy, mây ám non tần, nỗi buồn hải-giốc thiên-nhai, lại không thể nào ngăn lấp được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc-thang lễ-bái, và lấy lời ngọt-ngào khôn-khéo khuyên-lơn. Song bệnh thế mỗi ngày một trầm-trọng hơn, bà mẹ trối lại với nàng rằng:

— Ngắn dài có số, tươi-héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, cùng vui sum họp. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Dầu khan bức hết, số tận mình cùng. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa-xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền-báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống-dòng tươi-tốt, con cháu đông đàn; xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ lòng phụ mẹ.

Bà cụ nói xong thì mất. Nàng hết lòng thương xót, phàm việc ma-chay tế-lễ, lo-liệu như đối với cha mẹ sinh ra.

Qua sang năm sau, giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Trương sinh tới nhà thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ rồi bế đứa con nhỏ đi thăm. Ra đến đồng, đứa trẻ quấy khóc, sinh dỗ-dành:

— Con nín đi, đừng khóc. Cha về bà đã mất, lòng cha buồn-khổ lắm rồi.

Đứa con thơ-ngây nói:

— Ô hay! thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, không như cha tôi trước chỉ nín thin-thít.

Chàng ngạc-nhiên gạn hỏi. Đứa con nói:

— Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chả bao giờ bế Đản cả.

Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh-ninh là vợ hư, không còn ai có cách gì tháo cổi ra được.

Về đến nhà, mắng vợ một bữa cho hả giận. Nàng khóc mà rằng:

— Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum-họp chưa thỏa tình chăn-gối, chia-phôi vì động việc lửa binh. Cách-biệt ba năm, giữ-gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần-bạch để cổi mối nghi-ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.

Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể lời con nói; chỉ thường thường mắng-mỏ nhiếc-móc và đánh đuổi đi. Họ-hàng làng-xóm bênh-vực và biện-bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất-đắc-dĩ nói:

— Thiếp sở-dĩ nương-tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Đâu ngờ ân-tình tựa lá, gièm-báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng-phu kia nữa[1].

Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng-giang[2], ngửa mặt lên trời mà than rằng:

— Kẻ bạc mệnh nầy duyên-phận hẩm-hiu, chồng con rẫy bỏ, đều đâu bay-buộc, tiếng chịu nhuốc-nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan-trang giữ tiết, trinh-bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ-nương[3], xuống đất xin làm cỏ Ngu-mỹ[4]. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

Nói xong, gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm-hơi đâu cả. Một đêm phòng không vắng-vẻ, chàng ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:

— Ô! cha Đản lại đến rồi!

Chàng hỏi đâu. Nó trỏ bóng chàng ở trên vách:

Đây này!

Thì ra khi chàng đi vắng, nàng thường đùa trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới tỉnh-ngộ ra nỗi oan của vợ, nhưng đã chẳng làm gì được nữa.

Cùng làng với nàng, có người tên là Phan-Lang khi trước làm đầu-mục bến đò Hoàng-giang, một đêm chiêm-bao thấy người con gái áo xanh, đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan thấy có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, nhân đem phóng sinh con rùa ấy. Cuối đời Khai-đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm-Bình về nước, phạm vào cửa ải Chi-lăng (Lạng-sơn), nhân-dân trong nước, nhiều người sợ-hãi phải chạy trốn. Phan-Lang cùng mọi người làng cũng phải chạy trốn ra ngoài bể, không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan-Lang giạt vào một cái động rùa ở ngoài hải-đảo, bà Linh-Phi trông thấy nói rằng:

— Đây là vị ân-nhân cứu sống cho ta xưa đây.

Linh-Phi bèn lấy khăn gấm mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan-Lang liền tỉnh lại. Phan trông thấy cung gấm đài dao, nguy-nga lộng-lẫy: không biết là mình đã lạc vào trong Thủy-tuynh-cung. Linh-Phi bấy giờ mặc tấm áo cẩm-vân dát ngọc, đi đôi giày tản-hà nạm vàng, cười bảo Phan rằng:

— Tôi là Linh-phi trong Quy-động, phu-nhân của Nam-hải Long-vương. Nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông, bị người phường chài bắt được, ngẫu-nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp-gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng trời có ý cho tôi một dịp đền ơn báo nghĩa!

Phi bèn đặt yến ở gác Triệu-dương để thiết đãi Phang-Lang; dự tiệc còn có vô số những mỹ-nhân, bận quần nhẹ và búi tóc xễ. Trong số có một người, mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn trông rất giống với Vũ-nương (Vũ thị Thiết, vợ Trương-sinh). Phan thường nhìn trộm luôn, nhưng không dám nhận. Tiệc xong, người ấy bảo với Phan-Lang rằng:

— Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã quên nhau rồi ư?

Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ-nương. Gạn hỏi duyên-do. Nàng nói:

— Tôi ngày trước không may bị người vu-báng, phải gieo mình xuống sông tự-tử. Chư tiên trong thủy-cung thương tôi vô tội, rẽ một đường nước cho tôi được khỏi chết; nếu không thì đã chôn trong bụng cá, còn đâu mà gặp ông.

Phan nói:

— Nương-tử nghĩa khác Tào-Nga[5], hờn không Tinh-vệ[6]. Nay từ khi lạc về cung nước, thấm-thoắt đã một năm chầy, há lại không tưởng nhớ đến quê-hương ư?

Vũ-thị nói:

— Tôi đã bị chồng ruồng-rẫy, thà già đời ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về thấy người chồng!

Phan-Lang nói:

— Thưa nương-tử, tôi trộm nghĩ về nương-tử, nhà cửa của tiên-nhân, cây cối thành rừng, phần-mộ của tiên-nhân, cỏ gai nhớp mắt. Nương-tử dầu không nghĩ đến, nhưng con tiên-nhân mong đợi ở nương-tử thì sao!

Nghe đến đấy, Vũ-nương ứa nước mắt khóc rồi nói:

— Tôi có lẽ không thể gửi hình ẩn vết ở đây mãi được. Ngựa Hồ gầm gió bắc[7], chim Việt đậu cành nam[8]. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.

Hôm sau, Linh-Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng mười hạt minh-châu, sai Xích-Hỗn[9] sứ-giả đưa Phan ra khỏi nước; Vũ-nương cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:

— Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chúc tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về.

Về đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với nhà Trương. Ban đầu Trương còn không tin. Nhưng sau nhận được chiếc hoa vàng, mới kinh mà nói:

— Đây quả là vật dùng của vợ tôi xưa thật.

Chàng bèn theo lời, lập một đàn-tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng-giang. Rồi quả thấy Vũ-nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến hơn 50 chiếc xe nữa; cờ tàn tán lọng, rực-rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Chàng vội gọi; nàng vẫn ở giữa dòng mà nói với vào:

— Thiếp cảm ơn-đức của Linh-Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân-gian được nữa.

Rồi trong chốc lát, những hiện-tượng ấy chìm-lịm đi mất.


Lời bình

Than ôi! những việc từa-tựa như nhau, thật là khó tỏ mà dễ hoặc. Cho nên quăng thoi đứng dậy, tuy mẹ bậc đại-hiền cũng phải phân-vân,[10] mất búa đổ ngờ, tuy con người láng-giềng cũng khó chối-cãi[11], ý dĩ đầy xe, Quang-Võ đổ ngờ lão tướng,[12] trói lại mà giết, Tào-Tháo đến phụ ân-nhân,[13] việc Thị-Thiết cũng giống như vậy. Nếu không được trời xét tấm thành, nước không làm hại, thì xương hoa vóc ngọc, đã chôn vào họng cá ở dưới lòng sông, còn đâu được lại thông tin-tức để nết trinh-thuần được nhất-nhất bộc-bạch ra hết. Làm người đàn ông, tưởng đừng nên để cho giai-nhân oan-uổng thế này.

   




Chú thích

  1. Nghiêm Quán-Phu lấy vợ là nàng Bì-thị mười năm không có con, chàng bèn rẫy bỏ. Bì-thị làm bài thơ để từ giã rằng: «Đương thời tâm-sự dĩ tương quan, vũ tán vân thu nhất sướng gian. Tiện thị cô phàm tòng thử khứ, bất kham trùng thướng Vọng phu san». Chàng cảm-động, vợ chồng lại ở với nhau như cũ.
  2. Thuộc huyện Nam-xương tỉnh Hà-Nam bây giờ.
  3. Mỵ-Nương là vợ Trọng-Thủy, con gái vua thục An-dương-vương, vì lòng ngay mà phải thác oan, hóa thành ngọc trai dưới bể (cổ sử).
  4. Ngu mỹ-nhân là vợ Sở-vương Hạng-Võ. Khi Hạng-Võ thế cùng, chạy đến Cai-hạ, nàng rút gươm ra tự-vẫn. Tương truyền rằng hương hồn của nàng không tan, hóa thành hai khóm cỏ trên mồ, ngày đêm cứ quấn-quít vào nhau, người ta gọi là cỏ Ngu mỹ-nhân.
  5. Nàng Tào-Nga người đời nhà Hán. Cha nàng chết đuối dưới sông, tìm không thấy xác. Nàng mới 14 tuổi, vì lòng thương cha, đi dọc song khóc-lóc, suốt ngày ấy qua đêm khác. Rồi nàng cũng gieo đầu xuống sông tự-tử, sau ba ngày ôm được thây cha mà nổi lên. Người làng cho là thần-dị, lập miếu thờ.
  6. Con gái vua Viêm-đế ra chơi bể Đông chết đuối, hóa làm chim tinh-vệ, ngày ngày ngậm đá núi Tây để lấp bể.
  7. Ngựa Hồ sinh ở đất bắc, quen với gió bắc, cho nên thấy gió bắc nổi thì hý lên.
  8. Chim Việt sinh ở đất Việt, cảm thụ được cái khí ấm áp. Cho nên bay đi xứ khác, hễ đậu tất đậu ở cành phía nam là phía ấm-áp hợn với chỗ quê-hương.
  9. Hỗn là tên một loài cá quả.
  10. Ông Tăng-Sâm là bậc đại hiền. Một lần có người trùng tên với ông làm sự giết người; người ta tưởng là chính ông, đến báo tin cho mẹ ông biết. Hai người đến báo, bà vẫn điềm-nhiên ngồi dệt cửi, vì tin là con mình không khi nào như thế. Nhưng đến báo lần thứ ba, bà cũng phải đâm ngờ con mà quăng thoi đứng dậy (Ngữ-vận).
  11. Người thầy bùa mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng, nhìn cách đi đứng, giọng nói-năng của nó, nhất nhất đều thấy tỏ ra là một thằng ăn trộm búa. Nhưng rồi lại thấy búa; hôm sau nhìn đứa con láng giềng, thấy nó không có cái gì tỏ ra là đứa ăn trộm búa cả (Liệt-tử).
  12. Đời Đông-Hán, Mã-Viện sang lấn cướp nước ta, hay ăn món ý dĩ. Khi về, Viện chở một xe dĩ về. Sau khi Viện mất, có người dâng thư lên vua Hán nói gièm, bảo xe ấy chở những ngọc minh châu và da văn tê. Vua Hán tin là thực, bừng bừng nổi giận (Hán sử).
    Lời phụ — Mã Viện sang ta vơ-vét dữ lắm. Xe ý dĩ kia, tôi cũng không tin đó chỉ là một xe ý dĩ (dịch-giả).
  13. Tào-Tháo trốn nạn, đến nhà người bạn của cha là Tả Bá-Xa. Bá-Xa sang Tây-thôn mua rượu để thết. Tháo nghe đàng sau có tiếng mài dao, lén vào nghe trộm, thấy người nói: «trói lại mà giết»; Tháo xông vào, bất cứ đàn-ông đàn-bà giết sạch. Vào đến trong vườn, thấy có con lợn trói nằm đấy, bấy giờ mới biết là giết lầm người tốt. Vội-vã ra đi, được vài dặm gặp Bá-Xa cưỡi lừa đèo hũ rượu về, sợ Bá-Xa về thấy cả nhà bị giết sẽ làm lôi-thôi, Tháo lại chém Bá-Xa chết nốt (Tam-quốc chí).