Truyền kỳ mạn lục  (1547?)  của Nguyễn Dữ, do Ngô Văn Triện dịch
Chuyện tướng Dạ-xoa

CHUYỆN TƯỚNG DẠ-XOA


K kỳ-sĩ ở hạt Quốc-oai, họ Văn tên là Dĩ-Thành tính-tình hào-hiệp, không chịu để ma quỷ mê-hoặc. Phàm những hoa yêu nguyệt quái, và dâm thần lệ quỷ không được liệt vào tự điển, chàng đều coi thường không sợ-hãi gì. Cuối đời Trùng-quang nhà Trần, người chết-chóc nhiều, những oan-hồn không chỗ tựa-nương, thường họp lại thành từng đàn lũ, hoặc gõ cửa hàng cơm để kiếm miếng ăn, hoặc đón cô gái chơi để kết duyên tạm, ai va chạm thì bệnh nguy-khốn, ai cầu cúng thì thầy hết phép hay, hoành-hành ở đồng nội không biết kiêng-sợ gì cả. Dĩ-Thành nhân lúc say rượu, cưỡi ngựa đi ra, bọn ma quỷ sợ-hãi, đều tan chạy cả. Chàng kíp gọi bảo rằng:

— Các ngươi đều là những kẻ tráng-sĩ, không may mắc nạn. Ta nay đến thăm, muốn đem đều lợi hại nói chuyện, xin đừng lảng tránh như vậy.

Ma quỷ lại dần-dần họp lại, mời chàng lên ngồi phía trên. Dĩ-Thành hiểu-bảo rằng:

— Lũ ngươi cứ thích làm cho người ta phải tai-nạn, làm cho người ta phải chết-chóc, chẳng hay cốt để làm gì?

Chúng nói:

— Chúng tôi muốn để thêm quân.

— Các ngươi muốn cho thêm quân nhưng tổn-hại người sống thì sao! Quân thêm thì ăn uống phải thiếu người bớt thì cung-cấp phải thua, lợi gì cho các ngươi mà cứ thích làm như vậy? Lòng dục thả ra thì khe ngòi không đủ lấp, thói ác giở ra thì hùm sói chưa là dữ. Hễ lợi mình được, dù tấm áo mảnh giấy cũng không từ; hễ no lòng được, dù ống giập chậu vỡ cũng không thẹn. Hỳ-hục đi tìm chai lọ, hăm-hở đi kiếm cháo cơm. Gieo tai rắc vạ, trộm quyền của Hóa-công, kêu nóc dòm buồng, rối lòng của dân-chúng. Lũ ngươi lấy thế làm thích nhưng mà ta lấy thế làm thẹn. Huống chi trời dùng đức chứ không dùng uy, người ưa sinh chứ không ưa giết. Vậy mà lũ ngươi tự làm họa phúc, quá thả kiêu-dâm. Thượng-đế không dong, hình-phạt tất đến, lũ ngươi định trốn đi đàng nào để khỏi tru-lục.

Chúng quỷ bùi-ngùi nói:

— Đó là chúng tôi bất-đắc-dĩ chứ không phải là muốn như thế. Sống chẳng gặp thời, chết không phải số. Đói không có thứ gì cấp-dưỡng, lui không có chốn nào tựa-nương. Trong gò xương trắng, rầu-rĩ cỏ rêu, trên đống cát vàng, lạnh-lùng sương gió. Bởi vậy không khỏi rủ-rê bè-bạn, xoay-xở miếng ăn. Phương chi vận đời sắp đến lúc đổi thay, nhà người sẽ đến cơ tan-tác. Bởi vậy minh-ty không cấm-đoán, lũ tôi dễ tung-hoành. E rằng sang năm lại còn tệ hơn năm nay nữa.

Rồi đó nhà bếp dọn cỗ lên, mâm bàn la-liệt. Hỏi đến nguồn-gốc thì thịt là con trâu bắt ở thôn nọ, rượu là thúng bỗng lấy ở làng kia. Sinh ăn uống rất nhanh, như mưa như gió. Chúng quỷ mừng-rỡ bảo nhau rằng:

— Thật đúng là chủ soái của ta.

Rồi chúng nói với sinh:

— Chúng tôi là một đám ô-hợp mỗi người đều tự hùng trưởng, đã không có người đứng thống-xuất, thế tất không thể lâu-bền. Nay Sứ-quân rủ lòng yêu mà đến đây, đó là trời đem Sứ-quân cho lũ chúng tôi đấy.

Dĩ-Thành nói:

— Ta văn võ kiêm toàn, dù hèn cũng làm tướng được. Nhưng u-minh cách trở, còn bà mẹ già thì sao?

Chúng quỷ nói:

— Không; chỉ xin Sứ-quân giữ sự uy-nghiêm, ban cho hiệu-lệnh. Chúng tôi ban ngày thì chia khu ở tản, đến đêm thì sai viên bẩm-trình. Không dám phiền ngài phải trở về chín suối.

Dĩ-Thành nói:

— Nếu bất-đắc-dĩ dùng đến ta, ta có sáu điều làm việc, các ngươi phải thề mà tuân theo mới được.

Chúng đều vâng dạ, nhân xin đến đêm thứ ba tới chỗ đó lập đàn. Đến kỳ, chúng quỷ đều lại họp. Có một tên quỷ già đến sau, sinh sai đem chém, ai nấy đều run sợ. Sinh bèn ra lệnh rằng:

— Các ngươi không được coi khinh mệnh-lệnh, không được quen thói dâm ô, không quấy-quắc để làm hại mạng của dân, không cướp-bóc và phải cứu nạn cho dân, ban ngày không được giả hình, ban đêm không được kết đảng. Nghe mệnh ta thì ta làm tướng các ngươi, trái mệnh ta thì ta trị tội các ngươi. Nghe rõ lời ta, đừng để hậu hối.

Đó rồi bèn chia bọn chúng ra từng bộ, từng tốt, bảo phàm có điều gì hay dở, phải đến bẩm-trình.

Như vậy được hơn một tháng, một hôm đương lúc ngồi nhàn, Dĩ-Thành thấy một người tự xưng là sứ-giả của Minh-ty, đến xin mời chàng đi. Dĩ-Thành toan lảng tránh, thì người ấy nói:

— Đó là mệnh-lệnh của đức Diêm-vương. Vì ngài thấy ông là người cương-nghị, định đem phẩm-trật tặng cho, chứ không làm gì phiền ông đâu, đừng nên từ chối. Có điều là xin để cho ông được rộng kỳ-hạn, ông sẽ tự đến, tôi đợi ông ở dọc đường.

Nói xong không thấy đâu nữa. Sinh đòi chúng quỷ lại để hỏi, chúng đều nói:

— Bẩm, quả có việc ấy thật, chúng tôi chưa kịp thưa với Sứ-quân. Nhân hôm nọ Diêm-vương thấy buổi đời gặp lúc không yên, có đặt ra bốn bộ Dạ-soa, mỗi bộ cử một viên tướng, giao cho cái quyền-hành sát-phạt, ủy cho những tính-mệnh sinh-linh, trách-nhiệm lớn lao, không như mọi quan chức khác. Sứ-quân oai vọng lẫy-lừng, ngài đã biết tiếng, lại nhân chúng tôi hết sức tiến-cử, nên ngày định cử Sứ-quân vào chức lớn ấy.

Dĩ-Thành nói:

— Như lời các ngươi nói thì đó là cái phúc hay là cái họa cho ta?

— Dưới Diêm-la tuyển người không khác gì tuyển phật, không thể đút-lót mà được hay cầu may mà nên. Giữ mình cương-chính, tuy hèn-mọn cũng được cất lên, ở nết gian-tà, tuy hiển-vinh cũng không kể đến. Cái nhậm-vụ huấn-luyện quản-đốc, chẳng thuộc về Sứ-quân thì còn về ai. Nếu Sứ-quân còn ham luyến vợ con, dùng-dằng ngày tháng, thì chức ấy tất lọt về tay người khác, chúng tôi cũng sẽ phải buồn rầu.

Dĩ-Thành tắc lưỡi nói:

— Chết tuy đáng ghét, danh cũng khôn mua. Phương chi ngọn bút vì nhọn mà chóng cùn, cây thông vì cành mà bị đẫn, chim trĩ không vì lông đẹp, can chi rước vạ, con voi không vì ngà trắng, đâu phải đốt mình, chim hồng chim nhạn bị giết há bởi không kêu, cây hu cây lịch sống lâu chỉ vì vô dụng, tu văn dưới đất Nhan-Hồi tuổi mới băm hai[1], viết ký lầu trời, Trường-Cát trạc chừng hăm bảy[2], trượng-phu sinh ở đời, không làm nên được lưng đeo vàng, chân bước ngọc, thì cũng phải sao cho lưu danh muôn thủa, tội gì cứ cúi đầu ở trong cõi đời vẩn-đục, so kè cái tuổi sống lâu với chết non làm gì!

Bèn trang xếp việc nhà rồi chết.

Bấy giờ có người làng là Lê-Ngộ, cùng Dĩ-Thành vốn chỗ chơi thân, phiêu-bạt ở vùng Quế-dương, ngụ trong một nhà trọ. Một hôm chừng quá canh một, Lê-Ngộ thấy một người cưỡi ngựa thanh song, kẻ hầu, đầy tớ, rộn-rịp, đến xin vào yết-kiến. Chủ trọ vén mành ra đón; Lê-Ngộ rất lấy làm lạ là tiếng nói của khách giống tiếng Dĩ-Thành, nhưng trông mặt thì hơi không giống. Lê-Ngộ toan ra cửa để tránh thì khách nói:

— Cố-nhân biết ông, ông lại không biết cố nhân là làm sao?

Nhân kể quê-quán họ tên và nói mình đã lĩnh chức quan to ở dưới âm-phủ, vì có tình cũ với Lê-Ngộ nên tìm đến thăm.

Bèn cổi chiếc áo cứu, cố cho nhà hàng lấy rượu để uống làm vui. Rượu uống mấy tuần, Lê-nhân nói:

— Tôi xưa nay ở đời, vẫn để ý tu lấy âm-công, không mưu sự ích-lợi riêng mình, không gieo sự nguy-bách cho người, dạy học thì tùy tài dụ dịch, tự học thì cực-lực dùi-mài, không ước sự vẩn-vơ, không làm điều quá đáng. Vậy mà sao lại phải bốn phương kiếm miếng, chiếc bóng nhờ người, con khóc đói lòng, vợ than rét cật, về thì thiếu túp lều chắn gió, đi thì không chiếc nón che mưa, hết đông rồi tây, long-đong chạy mãi. Thế mà bè-bạn thì nhiều người đi làm quan cả; so bề tài-nghệ cũng chỉ như nhau mà thân danh khác xa nhau lắm; kẻ sướng người khổ như thế là cớ làm sao?

Dĩ-Thành nói:

— Phú-quý không thể cầu, nghèo-cùng do tự số, cho nên núi đồng mà chết đói họ Đặng[3] thằng Xe mà làm khốn chàng Chu[4] có duyên gió thổi núi Mã-đương[5] không phận sét đánh bia Tấn-phúc[6], nếu không như vậy thì đức hạnh như Nhan như Mẫn[7], hẳn là lên đến mây xanh, từ-chương như Lục như Lư[8], sao lại chỉ là chân trắng. Sự đó đều bởi cái gì không làm mà nên là bởi trời, không vời mà đến là bởi mệnh. Cái đáng quý ở kẻ sĩ chỉ là nghèo mà không xiểm-nịnh, cùng mà vẫn vững-bền, làm việc theo địa-vị của mình và thuận với cảnh-ngộ mà thôi, còn sự cùng thông sắc nhụt thì ta có thể làm gì cưỡng với chúng nó được.

Rượu đã uống cạn, lại khêu đèn cùng nhau trò-chuyện, kéo dài mãi vẫn không biết chán. Ngày hôm sau trong lúc tương-biệt, Dĩ-Thành đuổi hết mọi người ra rồi nói:

— Tôi mới vâng-lệnh của Thượng-đế, kiêm coi cả bọn quân ôn-dịch, chia đi làm việc ở các quận huyện, lại gia thêm những nạn đói-khát, binh-cách, số dân-sinh sẽ phải điêu-háo, mười phần chỉ còn được bốn, năm. Người nào nếu không phải nguồn phúc sâu-xa, e sẽ đến ngọc đá đều nát chung cả. Nhà bác phúc mỏng, tựa như không thể tránh khỏi được, nên sớm về quê-quán, đừng lần-lữa mãi ở đất khách quê người.

Lê nói:

— Tôi tưởng rất có thể trông nhờ ở bác che-chở cho chứ?

Dĩ-Thành nói:

— Không phải trong địa-hạt của tôi, tôi không có thể vượt qua được. Trường-giang trở về phía bắc do tôi chủ-trương, còn Trường-giang trở sang phía tây, do viên tướng họ Đinh trông coi. Nhưng tôi quản-lĩnh quân áo đen, chúng nó còn có từ-tâm, chứ họ Đinh quản-lĩnh quân áo trắng, phần nhiều là những tên ác quỷ, bác không nên không lo-liệu trước.

Lê hỏi:

— Vậy thì làm thế nào?

Dĩ-Thành nói:

— Mỗi một soái-bộ đêm sai hàng hơn nghìn tên quân, chia đi làm ôn-dịch các nơi. Bác nên sắm nhiều cỗ bàn bày sẵn ở sân. Bọn chúng từ xa đến tất là đói-khát, thấy cỗ liền ăn mà không suy-nghĩ gì. Bác núp ở một chỗ tối, đợi khi thấy ăn uống gần xong, bấy giờ mới ra mà sụp lạy, nhưng cũng đừng kêu-nài gì cả. Như thế họa may có cứu-vãn được phần nào chăng.

Đoạn rồi ứa nước mắt cùng nhau từ-biệt.

Lê-Ngộ về đến quê nhà, thì bệnh dịch đương nổi rất dữ, vợ con đều mắc rất nặng, hầu không thể nhận được nhau nữa. Bèn theo lời Dĩ-Thành, đêm hôm ấy làm cỗ rất hậu bày ra ở sân. Quả thấy có đám đông quỷ sứ, từ trên không bay đến nhìn nhau mà nói:

— Chúng ta đều đói cả, sẵn cỗ đây không ăn thì còn đi đâu. Chả nhẽ vì uống mấy chén rượu mà đã đến phải tội được.

Chúng bèn cùng quay lại đánh chén. Một người mặc áo tía chễm-chệ ngồi ở chính giữa, còn những người đều đứng chầu chung quanh, kẻ cầm dao búa, người cầm sổ-sách. Thấy họ ăn uống gần xong, Lê-Ngộ ra lạy mãi, lạy mãi. Người áo tía nói:

— Ta đương đánh chén, gã kia đến đây làm gì?

Chúng quỷ nói:

— Chắc là người chủ bày những mâm cỗ này, nhà hắn có người ốm nặng, kêu xin châm-chước.

— Người áo tía tức-giận, cầm quyển sổ ném xuống đất mà nói:

— Lẽ đâu vì có mâm cỗ sơ-sài mà đánh đổi được năm mạng người hay sao!

Chúng quỷ nói:

— Nhưng đã ăn của nhà nó, chả lẽ nỡ làm ngơ không cứu. Thôi thì dù có vì cứu nó mà phải tội, dẫu chết ta cũng bằng lòng.

Người áo tía ngẫm-nghĩ lúc lâu, bèn lấy bút son xóa bỏ hơn mười chữ rồi đi. Sau vài ngày, nhà họ Lê ai nấy lui bệnh và rồi khỏi cả. Lê cảm ân đức của Dĩ-Thành, bèn lập miếu ở nhà để thờ. Người làng đến khấn-vái kêu cầu cũng thường ứng-nghiệm.


Lời bình

Than ôi! bè-bạn là một ở trong năm đạo thường, có thể mà coi khinh ư? Câu, chuyện quỷ Dạ-xoa này, thật có hay không, không cần phải biện-luận cho lắm. Chỉ có một điều đáng nói là sự chơi bạn của Dĩ-Thành, khi đã coi ai làm người bạn chân-chính thì sống chết không đổi thay, hoạn nạn cùng cứu-gỡ. Đời những kẻ kết bạn ở chung quanh mâm rượu, gan dạ đảo-điên, hễ lâm đến sự lợi-hại thì lờ đi như không biết nhau, nghe chuyện này há chẳng chạnh lòng hổ-thẹn.




HẾT

   




Chú thích

  1. Nhan Hồi là học-trò đức Khổng-tử, vào bậc đại-hiền, khi mất mới có 32 tuổi. Đời Tấn, Tô Thiều đã chết lại hồi. Người em là Tiết hỏi chuyện; Thiều nói thấy hai ông Nhan Hồi và Bốc Thương làm chức Tu-văn-lang ở dưới đất.
  2. Lý Hạ tự là Trường-Cát làm văn rất nhanh, đặt bút là thành. Một hôm thấy một người cầm một cái thẻ, chữ viết như lối chữ triện cổ, đến bảo Thượng-đế mới làm xong cái lầu bạch ngọc, vời thầy lên làm cho bài ký. Không bao lâu thì Hạ chết. Từ đấy khi nói về văn-nhân mất sớm, người ta thường nói là ngọc lâu phó triệu.
  3. Vua Hán Văn-đế yêu-quý người bầy tôi là Đặng-Thông, thấy thầy tướng bảo Thông sẽ phải chết đói, bèn cho cả cái núi đồng ở đất Thục, cho được phép đúc tiền mà tiêu, sẽ không còn lo chết đói nữa. Nhưng sau Văn-đế mất, Cảnh-đế lên làm vua, ghét Thông, tịch thu cả gia-sản. Thông phải đi ở nhờ và quả-nhiên chết đói.
  4. Chu-Thù nhà nghèo, chiêm-bao thấy Thượng-đế thương mình. Ngài hỏi vị thần tư-mệnh: Nó có giàu được không? Tư-mệnh nói: Số nó nghèo lắm. Nhưng hiện có số tiền-của của thằng Xe, có thể cho nó mượn được, rồi đến kỳ thằng Xe nó sinh thì lại phải trả. Sau Chu khá giàu: đúng đến kỳ-hạn, Chu xe tiền-của chạy đi trốn. Buổi tối, Chu dừng xe nghỉ ở dọc đường, gặp một người đàn-bà chửa xin tạm nằm nhờ ở dưới xe. Đêm ấy người đàn-bà đẻ đứa con trai, vì nghĩ nó đẻ ở dưới xe, bèn đặt tên là thằng Xe. Từ đấy Chu làm gì cũng thất bại, lại thành nghèo kiết.
  5. Vương-Bột đời Đường theo cha đi làm quan, đậu thuyền ở dưới núi Mã-đương, mộng thấy vua Thủy-phủ giúp cho một trận gió. Hôm sau quả nhiên có gió thuận; thuyền đến Nam-xương làm bài tựa Đằng-vương-các.
  6. Phạm Trọng-Yêm đời Tống khi làm trấn-thủ Nhiêu-châu, có người học-trò vào yết-kiến, nói tình-cảnh đói rét nghèo-khổ. Bấy giờ người ta đương mộ lối chữ đẹp của Âu-dương Xuất-canh viết khắc ở tấm bia chùa Tấn-phúc. Ông Phạm bèn mua giấy mực định cấp cho người học-trò ấy đến chùa rập lấy nghìn bản rồi đến Kinh mà bán lấy tiền. Người học trò chưa kịp đến rập, bỗng môt hôm mưa gió, tấm bia bị sét dánh vỡ-mất. Vì vậy có câu thơ: «Thời-lai phong tống Đằng-vương-các, vận khứ lôi oanh Tấn-phúc bi».
  7. Nhan Uyên, Mẫn Tử-Khiên đều là học trò bậc cao của đức Thánh Khổng.
  8. Lư Chiếu-Lân và Lạc Tân-Vương là hai tay danh-sĩ đời Đường Cao-Tông. Bùi Hành-Kiệm thường chê là những người nóng-nảy xốc-nổi, không phải là kiểu người được hưởng tước-lộc. Sau Lư vì ác tật mà gieo mình xuống nước chết, Lạc thì vì dự vào đảng loạn phải chết, đúng như lời Kiệm nói.