NHỮNG THƠ LÀM TRONG ĐỜI QUẢNG-ĐỨC, THI-SĨ Ở TỬ-CHÂU, LÃNG-CHÂU, TRỠ VỀ THÀNH-ĐÔ, LÀM THAM-MƯU CHO NGHIÊM-VŨ

CXXCV. — GIẢI BUỒN

Bốn bể mười năm rộn chiến-tranh!
Chó-dê nay lại tới Hàm-Kinh!
Phải miền Tương-dã đường đi lạc?[1]
Sao nẻo Vu-hồ ngựa chạy quanh?[2]
Chật đất hùm beo người mất hút!
Thâu đêm đóm lửa xác nằm ghềnh!
Nhà vua chừng đã ghê xuôi ngược!
Các tướng làm sao được Thái-bình?
Thuế khóa chỉn e quen bóp nặn!
Gian tà nghe nói vẫn rông rênh!
Đầy Trời gió bụi còn chưa ngớt!
Mắt lão nhìn đời hoặc chả tinh!

CXXCVI. — TUYỆT CÚ.

Trên sông vừa dẫm cỏ,
Ngảnh lại thấy cờ vàng...
Chiều, gió thành xuân nổi...
Lầu cao, trống, ốc vang!

CXXCVII. — CHƠI SÔNG

Bặt mắt sông yên sóng,
Không chèo thuyền cũng qua.
Ngày rộng vung chè chén!
Dòng sâu ánh lượt là...
Loạn ly còn thét nhạc!
Xiêu-bạt hãy nghe ca...
Quê cũ trên dòng Vị
Mùa này đương lắm hoa.

CXXCVIII. — MỘNG VỀ.

Đường lối bao ngăn trở?
Non sông ngày vắng thưa...
Ba triều giặc không hết,
Một lão sống càng rơ!
Sông Hắc mây trùm kín!
Ngàn Xanh mưa tỏa mờ!
Mộng hồn về chửa được,
Tìm gọi cũng bằng dư!

CXXCIX. — QUÁN NGỌC-ĐÀI

Xanh đọng từng không quán Ngọc-Đài.
Cờ Tiên đỏ ối tới chầu Trời!

Thổi kèn, Doanh-nữ[3] xem chừng khá!
Đánh trống, Phùng Di[3] vốn có tài!
Hang giải mập-mờ, sông lấp-loáng...
Cầu ô vắt-vẻo, đá chơi vơi...
Má hồng có phép, sinh đôi cánh,
Tóc trắng xin tu trọn một đời...

CXC. — SẮP SANG KINH NAM, GỬI TỪ DÃ LÝ KIẾM-CHÂU.

Nghĩa khí như ông đời thực hiếm,
Ba năm châu Kiếm chịu ngồi bền!
Phong hầu, Lý Quảng[4] duyên chưa gặp,
Khai hóa, Văn-Ông[5] việc đã nên.
Diệm-dự đường qua hai mái tóc!
Thương-lang trời rộng một con thuyền...
Ngày nào lại gặp, đời đương loạn?
Xuân tới quay nhìn gác Trong-Tuyên!

CC. — TỪ-BIỆT MẢ PHÒNG THÁI ÚY (QUÁN)

Dừng ngựa bên mồ bạn

Quê người nay bỏ nhau!
Lệ dài đất đầm ướt.
Trời thấp mây dầu dầu,
Trút kiếm người nào thấy![6]
Hầu cờ truyện đã lâu!
Hoa ngàn thầm lặng rụng
Oanh hót dục ai sầu!

CCI. — SẮP VỀ THÀNH-ĐÔ, LÀM DỌC ĐƯỜNG, GỬI TRƯỚC CHO TRỊNH QUỐC-CÔNG NGHIÊM VŨ

Cửa nhà thành Gấm kể mà chi!
Nhớ ghế da đen[7] phải tính về!
Đi trước vì lo quân giặc tới.
Lại giờ chỉ sợ láng giềng chê.
Nghiêng mình trời, đất, còn nhiều chuyện!
Dạn mặt phong sương, chịu một bề!
Quan Tướng nghe đồn thao lược lắm,
Khách du thôi chẳng ngại-ngùng gì!

CCII. — NHÀ TRANH

Trước ta lìa nhà tranh,
Thành-Đô giặc đầy chan!
Nay ta về nhà tranh,
Thành Đô lại yên hàn!
Xin kể khi mới loạn:
Bỗng chốc sinh tai nàn...
Quan-lớn về Triều đình.
Tụi nhỏ bầy mưu gian
Nửa đêm chém ngựa trắng.
Thề thốt thẩy nhơn nhơn!
Bắc chặn lối Kiếm-Các;
Tây lấy quân Nam An,
Mấy chục thằng áo vải
Cũng lập riêng giang sơn!
Thế chẳng ai chịu ai,
Mán, Kinh chia từng đoàn.
Quân lính dở giáo hoài!
Tướng giặc giết nhau tràn!
Biến sinh ngay cạnh nách!
Đáng kiếp phường gian-ngoan
Rường-mối rối lung-tung!
Nghĩa sĩ đều căm gan!

Một nước chốc ba vua!
Trăm họ khổ muôn vàn!
Ra ơn rồi ra oai!
Thương đâu kẻ hàm oan!
Sau lưng đàn sáo vang!
Trước mắt gông cùm, dàn!
Vừa cười vừa giết người!
Máu tưới đầy đường quan!
Tới nay nơi hành hình,
Mưa, gió nghe kêu van!
Vợ ma rồi ngựa ma.
Sung-sướng quân thâm tàn!
Phép nước nào còn đâu!
Càng nghĩ càng tân toan!
Thân hèn chạy sang Ngô
Ba năm mong giặc tan
Cung, tên rợn năm Hồ,
Khôn thả con thuyền nan!
Nay về dọn gai góc
Cảnh cũ dạ bàn-hoàn.
Trước hiên tre mọc cao.
Ngoài cửa thông xanh rờn!
Chó cũ mừng ta về,

Quẩn chân vẻ mừng rơn!
Hàng xóm mừng ta về,
Bầu rượu cùng chia san!
Quan lớn mừng ta về,
Sai hỏi: cần gì hơn?
Trong thành mừng ta về,
Chật ngõ khách đầy đàn!
Hủ-nho thua tráng-sĩ,
Thiên hạ buổi lầm than!
Thân già chứa vào đâu?
Gió bụi còn mê-man!
Ở đời như thịt bướu!
Máu, tủy may chưa khan!
Ăn rau, ăn cả gốc!
Sống thừa đâu dám hờn

CCIII. — LÊN LẦU.

Hoa đẹp, lầu cao, khách ngậm ngùi:
Muôn phương cực khổ, đứng mà coi!
Mây thay đổi núi, từ muôn thuở!
Xuân điểm tô sông, cả một trời...
Đất Bắc, Triều đình chưa khác chủ,
Non Tây, quân giặc chớ trêu ngươi!
Thương thay Hậu-chúa còn hương-khói!

Lương-Phủ[8] chiều hôm tạm hát chơi!

CCIV. — VƯƠNG-LỤC-SỰ HỨA CHO TIỀN LỢP NHÀ, CHƯA THẤY GỬI, TẠM NHẮC LẠI.

Quái lạ! Tiền không gửi!
Nhà tôi bác tính sao!
Mưa xuân mà dột đấy!
Hỏi: Có nhớ hôm nào?

CCV. — TUYỆT CÚ.

I

Gió xuân hoa, cỏ ngát...
Ngày chậm núi sông xinh..
Cát ấm, uyên nằm ngủ...
Bùn tan, én liệng quanh.

II

Sông biếc, chim càng trắng!
Non xanh hoa rọi hồng.
Bao giờ về xứ-sở?
Xuân lại một mùa trông!

CCVI. — HOÀNG-HÀ.

I

Bờ Bắc Hoàng-Hà lính thú ai?
Chuông khua, trống đánh rậy gầm trời!
Sao quân....[9] đi hàng toán?
Ngựa sắt bao nhiêu vẫn thét dài?

II

Bờ Tây Hoàng-Hà là đất Thục.
Quân lương muốn góp nhưng không thóc!
Xin đem dân-chúng kiện nhà vua,
Thống nhất non sông, bỏ vàng, ngọc!

CCVII. — QUAN THÁI-TỬ XÁ-NHÂN HỌ TRƯƠNG ĐƯA CHO CHIẾC ĐỆM DỆT SẴN.

Khách từ Tây-Bắc sang,
Cho ta tấm gấm xanh.
Mở gói sóng, gió nổi:
Trong có con cá kình!
Ngoài ra các thủy-tộc
Lau-nhau theo lượn quanh!
Khách rằng: « Đó tấm đệm,
« Ông dùng khi mỏi mình!
« Khắp nhà ma chạy hết!

« Trên gối hồn nhẹ thênh!
Trân trọng lĩnh ý khách...
Tôi nào phải Công-Khanh! »
Dùng nó sợ không mát!
Trải phí dưới nhà tranh!
Phục sức tùy bậc người:
Phép cổ dám coi khinh!
Nay tôi một lão hèn,
Áo rách chiếc quần manh!
Rờ rỡ của cung cấm,
Nằm ngồi e chẳng lành!
Thở dài: kìa các quan!
Giặc dã vẫn tung hoành!
Trong tay nắm quyền bính
Xe ngựa thôi rung-rinh!
Lý-Đỉnh chết Kỳ-Dương,
Thực chỉ vì ngông nghênh!
Lai-điền phải « tự tử »;
Bởi làm ngăn việc binh![10]
Đều do vàng, bạc nhiều,

Xui nên tai vạ sinh!
Lẽ đâu lão nhà quê,
Tặng cho quá thịnh tình!
Cuốn đệm trả lại khách,
Lòng mới thôi kinh-kinh!.,
Nhân dũ chiếc chiếu bụi,
Mời khách ăn rau, canh...

CCVIII. — NẮNG CHIỀU TRONG RINH, NHỚ NHÀ TRANH NGOÀI THÀNH,

Rinh tướng ngày, đêm gió mát thay!
Qua thành mây loãng rắc mưa bay!
Lá buông quả chín từng khi rụng.
Thềm rải rêu xanh mấy lớp giầy.
Chuông trống nghe ra trời sắp tạnh[11]
Lâu đài in nổi bóng về Tây.
Tha hồ bên suối hoa cười khách:
« Vừa ẩn, vừa quan, gớm mặt thày! »

CCIX. — NGỦ TRONG RINH

Sân rinh thu rụng lá ngô-đồng.

Buồng gác đèn soi mặt thức chong!
Tiếng ốc canh dài buồn tự biết!
Ánh trăng trời rộng đẹp ai trông?
Tin thư gió bụi ôi chìm đắm!
Đường lối quan-san xiết ngại ngùng!
Mấy độ deo-neo đành chịu nhịn!
Một cành nương náu tạm cho xong!

  1. Hoàng-Đế lạc đường ở Tương-Dã.
  2. Tấn Minh-Đế vi-hành đến Vu-hồ.
  3. a ă Tên hai vị thần-tiên.
  4. Lý-Quảng đời Hán, không có số được phong hầu.
  5. Văn-Ông có công khai hóa cho dân Thục
  6. Qúy-trát trút gươm treo trên mả vua Từ để tặng vong-hồn nhà vua.
  7. Nhà ẩn-sĩ Tống-minh có cái ghế bọc da dê đen
  8. Gia-Cát Khổng-Minh khi chưa ra giúp Lưu-Bị, thường hay ngâm bài Lương-Phủ-ngâm.
  9. Người giống Hồ.
  10. Tự-Tử: cho chết. Nhà vua cho phép người có tội được tùy ý chọn lấy cách chết!
  11. Tục cho chuông trống kêu là triệu trời nắng.