Quốc văn trích diễm/101
101 — MẸ KHUYÊN CON LÚC VỀ NHÀ CHỒNG
ĐẦU BÀI: Mày về nhà chồng, phải kính phải răn, chớ trái lời chồng. (Chữ kinh Lễ: vãng chi nhữ gia, tất kính tất giới, vô vi phu tử. 往 之 女 家。必 敬 必 戒。無 違 夫 子。).
BÀI LÀM: (Câu phá) Khuyên con giữ đạo làm dâu, bà già nghĩ đã đến lắm vậy.
(Câu thừa) Phù 1 con dại cái mang 2, lẽ xưa nay vốn thế. Khuyên con phải kính trọng chồng, há chẳng phải đạo lắm ru!
(Khởi giảng) — Mẹ đưa con ra cửa, ý nghĩ rằng: trong phối định ba giường 3 đạo cả, thực là muôn hóa chi theo ra; mà hôn-nhân hai họ giao vui, há để một lời chi trách đến.
(Câu lĩnh mạch) — Mẹ đưa con ra, mẹ càng nghĩ lắm, con ạ!
(Khai giảng vế trên) — Con, con mẹ, mà dâu, dâu người vậy! Hoặc lời ăn lời nói chi ra tuồng, tức lành đồn xa, dữ đồn xa, ai bảo rằng con chi còn nhỏ.
(Khai giảng vế dưới) — Dâu, dâu người, mà con, con mẹ vậy! Hoặc trong cửa trong nhà chi có chuyện, tức yêu nên tốt, ghét nên xấu, rồi ra trách mẹ chi không răn.
(Câu hoàn-đề) — Về nhà chồng phải kính phải răn, chớ trái lời chồng, con nhé!
(Trung-cổ vế trên) — Lúc ở nhà nhờ mẹ nhờ cha, về nhà chồng nhờ chồng nhờ con nhé! Khôn chẳng qua lẽ, khỏe chẳng qua lời, chớ bắt chước người đời xỏ chân lỗ mũi 4 chi lăng nhăng. Nhủ này con, nhủ này con: đi đến nơi về đến chốn, việc nhà việc cửa cho siêng-năng, hỏi thì nói, gọi[1] thì thưa, thờ mẹ thờ cha cho phải lễ. Kính lấy đấy! Răn lấy đấy! Liệu học ăn, học nói, học gói, học mở; khi anh nó hoặc ra xô xát chi lời, cũng tươi, cũng đẹp, cũng vui cười, chớ như ai nhà ma, mà hoặc con cà con kê 5 chi kể lể.
(Trung-cổ vế dưới) — Lúc ở nhà là mẹ là con, về nhà chồng là dâu là con nhé! Khôn cho người giái 6, dạu cho người thương, chớ bắt chước người thế mặc áo qua đầu chi khủng-khỉnh. Nghe chưa con? Nghe chưa con? Ăn có nơi, nằm có chốn, lời ăn nết ở cho ra tuồng; gọi thì dạ, bảo thì vâng, thờ mẹ thờ cha cho phải đạo. Kính vậy thay! Răn vậy thay! Chớ cậy khôn, cậy khéo, cậy duyên, cậy tài; khi anh nó hoặc nổi bầng-bầng chi sắc, thì lạy thì van thì lễ phép, đừng học chi những tuồng đĩ-thõa, mà hoặc dây mơ rễ má 7 chi lôi thôi.
(Hậu-cổ vế trên). — Đời có kẻ xem chồng như đứa ăn đứa ở, thậm đến điều mày tớ chi khinh. Chẳng biết rằng: ngu si cũng thể chồng ta, dẫu rằng khôn khéo cũng ra chồng người. Chẳng suy chẳng nghĩ, lại ra điều cả vú lấp miệng em 8, sao chẳng biết xấu chàng hổ ai 9 chi lý! Mẹ khuyên con giữ đạo cương-thường, khôn hèn cũng chịu, hay dở cũng đành, chớ hoặc sinh vênh-vểnh chi môi; khi anh nó giận quá sinh xằng, mẹ con ắt phải mắc bèo trôi 10 chi tiếng.
(Hậu-cổ vế dưới). — Đời có kẻ giận chồng mà đánh con đánh cái, thậm đến điều mày tao chi quá. Chẳng biết rằng: khôn ngoan cũng thể đàn-bà, tuy rằng vụng dại cũng là đàn-ông. Bạ ăn bạ nói, lại ra điều múa rìu qua mắt thợ, 11 sao chẳng biết già đòn non lẽ chi cơ? Mẹ khuyên con giữ nết thảo hiền, vọt roi cũng chịu, yêu thương cũng nhờ, chớ hoặc lộ xầm-xầm chi mặt; khi anh nó nói dai càng thêm chuyện, cha con ắt phải mang vớ cọc 12 chi cười.
(Kết-cổ). — Con ơi, nhập gia tùy tục, 13, mẹ nhủ cho đạo vợ chi thường; xuất giá tòng phu, 14 con phải giữ nhà chồng chi phép.
(Thúc-đề). — Thôi mẹ về!
CHÚ THÍCH. — 1. Tiếng đưa đẩy như chữ « ôi » của ta. — 2. Câu tục-ngữ (trong bài này các câu in chữ nghiêng là tục-ngữ hoặc phong-dao cả): con dại mẹ (cái là mẹ) mang tiếng. — 3. Phối định là nghĩa vợ chồng lấy nhau. Ba giường là dịch chữ tam cương, (xem câu chú-thích (2) về bài thơ Vịnh bà Phan-thị-Thuấn ở trang 33,) ý câu này nói: đạo vợ chồng là gốc trong tam-cương. — 4. Tục-ngữ, ý nói: tính khinh nhờn (lờn), thói lăng loàn. — 5. Kể lể lôi thôi. — 6. Chữ giái này nghĩa là trọng nể. — 7. Nói bậy nói nhảm. — 8. Tục-ngữ: nói ý lăng-loàn hiếp nạt. — 9. Tục-ngữ: ý nói làm xấu chồng thì mình cũng hổ (mắc cở) lây, có vinh dự gì. — 10. Tục-ngữ: mẹ vợ như bèo trôi sông, ý nói khinh miệt. — 11. Tục-ngữ: nói ý hợm-hĩnh, kiêu-kỳ. — 12. Tục-ngữ: Bố vợ thì vớ cọc chèo; ý nói đãi bố vợ không ra gì cả. — 13. Nghĩa là vào nhà nào phải theo thói nhà ấy. — 14. Nghĩa là đi lấy chồng phải theo chồng.
Chú thích
- ▲ Kêu.
- ▲ Xem tiểu-truyện tác-giả trang 36.