Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhứt/Tân An

Tân-An

Tân-an phong cảnh thi:

Đoái nhìn phong cảnh hạt Tân-an,
Đất tốt người đông ruộng cả ngàn.
Giồng-én Tướng-quân bia hẩy tạt,
Vững-gù khoa giáp tiếng còn van.
Nỗi danh lớp trước nhiều tay lịch,
Phát phước giàu to lắm kẻ sang.
Tục mỹ phong thuần khoe chốn chốn,
Đờn thi xướng họa thú thanh nhàn.

Vủng-gù là hạt Tân-an, Châu thành Bình-lập thật làng có danh.
Hai bên phố xá phân minh, Nhà việc ngay giữa đất chinh chinh bằng.
Nhờ quan Chánh-bố La-rang (Lagrange), Trước ngồi Rạch-giá sau thăng Vủng-gù.
Tới đâu kinh lý chĩnh tu, Làm cho các xả công nhu có nhiều.
Ngài hay nghĩ nghị bày đều, Sữa Tân-an hạt mĩ miều tốt thay.
Châu-thành Bình-lập ngày nay, Nghiêm trang tề chỉnh thêm rày lợi riêng.
Châu-hoằng-Long, rất lanh siêng, Năm năm làm xả mối giềng nội thôn.
Tánh người nhặm lẹ khéo khôn, Lập gánh hát bóng tiếng đồn gần xa.
Thông minh ít kẻ ăn qua, Bao nhiêu máy móc coi ra đũ đều.
Có em tên gọi Giáo-Nhiều, Lâu nay chứa để biết nhiêu kiểu hình.
Mấy mươi thứ kiểu phân minh, Đóng khuôn sấp lại treo xanh quanh nhà.
Tánh chơi cũng khác người ta, Dạy con ăn học thiệt thà nghỉa phương.
Đồ làm chung biểu đầy rương, Siêng năng sớm tối thường thường sữa trau.
Khen cho ý tứ cơ cầu, Đồng-hồ nghề nghiệp nhiệm mầu trí riêng.
Đẹp thay nhà Hội-đồng Nguyên, Cột rường tráng lệ khuôn viên một tòa.
Chiêu hiền đải sĩ gần xa, Rượu đờn thơ phú xướng hòa ăn chơi.
Tân-an toàn hạt nơi nơi, Ruộng hai ba hạng lộc trời phì nhiêu.
Đất thuột ruộng thảy mĩ miều, Đất hoan mới khẩn chỗ đều kheo khư.
Thâu-thành khi thiếu khi dư, Bỗn căn thỗ sảng gốt chừ là nông.
Tiếng rằng ruộng khẩn Bắc-đông, Đá-biên, Cờ-nhiếp minh mông cả rừng.
Đá-biên vàm có tàu ngừng, Trao thơ bánh thịt ghe luân chuyển vào.
Tới nơi Cờ-nhiếp sẻ giao, Họa-đồ kinh-lý thâu vào luôn luôn.
Thuở xưa cảnh ấy quá buồn, Ngày nay mở phát phá ruồng mới xong.
Thẳng vô tới kinh Bắc-đông, Nhã tư mới củ đào thông hai đầu.
Một đầu đào củ đã lâu, Một đầu thì mới đào sau đã rồi.
Từ đó thẳng vô một hồi, Đến Nhơn-ninh xã hẳng hòi dân đông.
Thương Ngô-hửu-Tự có công, Qui dân lập ấp nghiệp nông thành làng.

Tục ngữ kêu kinh Năm-ngàn, Dân nhờ hột lúa nhẩy tràng đủ tiêu.
Đập đià cá mắm biết nhiêu, Tưởng ngày sau cũng thêm nhiều người ta.
Trời cho cây sẳng cất nhà, Thiên thiên vạn vạn gần xa những tràm.
Sanh ra ở cỏi bờ Nam, Lợi trong đất nước siêng làm xiết bao.
Liền nơi Cờ-nhiếp thẳng vào, Muốn nhắm chỗ nào thì có thang-trông.
Minh minh trước mặt những đồng, Thông qua Thập-tháp không không cả trời.
Rừng-tràm xem khắp nơi nơi, hyMỷ-tho, Sa-đéc, xa khơi tứ bàn.
Dân cư rãi rát xóm làng, Gốc nhờ lúa cá cũng nhàn với nhau.
Năm ba năm nữa về sau, Chắc thêm đông đảo lợi đâu sánh tày.
Dân giàu nước mạnh xưa nay, Chánh-chung thạnh trị tốt thay vững vàng.
Hềm vì con chuột nhẩy tràng, Đêm ra cắn lúa khốn nàn nhà nông.
Phép chi trừ đặng cho xong, Điền gia các chủ tấm lòng mới an.
Bắc-chiên đất lắm Mên Mang, Giáp với Trà-Lét Nam-vang địa phần.
Ở xen Hớn, Thổ làm ăn, Thổ nhiều Hớn ít người năn cơ hàng.
Giáp-thìn trận bảo vừa tàn, Bước qua Ất-tỵ họa sang cào cào.
Nhà nghèo xiết mấy khổ lao, Tản đi xứ khác biết bao li loàn.
Khắp xem nội hạt Tân-an, Thanh hoa đẳng vật mỗi làng đủ tiêu.
Đồ ăn tôm cá cũng nhiều, Mé sông dừa nước trồng đều nhặc sai.
Xe-lữa bốn buỗi ghé hoài, Tàu-đò tuần lễ đặng vài ba phen.
Ăn chơi bất luận sang hèn, Đấu kê đổ bát thói quen trong làng.
Kì-son, Nhựt-tảo khắp ngàn, Ruộng tốt đầy tràng giáp tới Gò-công.
Kì-son trước có phú ông, Kêu là ông Hóng người đồng nhớ tên.
Hẫy còn tiếng để lâu bền, Rằng kinh ông Hóng ai quên đặng nào.
Các nhà khoa mụt cựu-trào, Cữ-Cần, Cữ-Kiệm, phú hào lưu lai.
Nay còn con cháu gái trai, Tại làng Bình-hiệp có vài người liêm.
Cai-tổng Cù-Hiển đương kiêm, Với cùng cả Bá khiêm khiêm kính hòa.
Ngụ làng Gia-thạnh Tú-trà, Cữ-Tấn, Tú-Thiệp quán là Phú-xuân.
Cữ-Thông, Cữ-Đạt, Cữ-Xuân, Ở làng Bình-trị vừa chừng văn chương.
Tú-Nghi lại với Tú-Lương, Cũng người làng ấy khoa trường hữu duyên.
Thầy Tú-Khâm, có điền viên, Người làng Ái-nghĩa tánh hiền hậu thay.
Tổng Thạnh-hội-hạ đến nay, Khoa danh thuở cựu đông dầy rất xinh.
Gốc nhờ sư phạm tiên sanh, Đào-duy-Khâm trước tát thành lắm công.
Làng Tường-khánh, tổng Hưng-long, Tục kêu Cái-én là giồng Tiền-quân.
Phò Cao-hoàng, đại công huân, Ông Nguyễn-huỳnh-Đức gian truân nhiều lần.
Sanh vi tướng tử vi thần, Hiện tồn lư tẩm mộ phần tại nơi.
Cháu chắc còn ba bốn đời, Là Nguyễn-huỳnh-Hữu rạng ngời gia thinh.

Lửa hương phụng sự thủ thành, Người kêu lăng miểu anh linh thấy thường.
Công thần cơ nghiệp miên trường, Thiệt trời không phụ cột rường quấc-gia.
Giồng thường có cát bồi sa, Người hay chuyên chở đem ra Vủng-gù.
Chợ đông dân số mật trù, Cai-tài, Quản-tập, Tầm-vu, Thủ-thừa.
Chợ Rạch-mát, người nhóm thưa, Kỳ-son, Nhựt-tảo, vừa vừa dể coi.
Vủng-gù đông đảo hẳng hòi, Tham-nhiên, Phó-tí rạch ngòi xứ quê.
Làng Bình-cang, vàm Châu-phê, Gốc xưa chữ đề cám bấy quân ân.
Thuở kia ông Nguyễn-phước-Vân, Đánh Mên dẹp giặc dần dần mở mang.
Khẩn khai mấy sở đất hoang, Đem mình xướng suất cã đoàn quân dân.
Lịnh vua châu bút phê trần, Phước-Vân ruộng khẫn cho phần quản chuyên.
Để làm huyết thực tự điền, Người ta tự hậu kêu miền Châu-phê.
Các chùa miểu rất chỉnh tề, Xuân kỳ thu báo giữ bề lể nghi.
Tang hôn ngộ sự bất kỳ, Đầu đào báo lý thích kỳ vản lai.
Học trường các sở trong ngoài, Mấy thầy giáo-tập dồi mài đợi khoa.
Trường riêng dạy chữ nho ta, Lệ cho ôn cố mới là tri tân.
Bảy ngày lể bái một lần, Người trong đạo chúa chuyên cần đọc kinh.
Thánh-đường phong cảnh đẹp xinh, Các ông Linh-mục giảng minh hết lòng.
Ngôi nhà thầy Hội-đồng Phòng, Cũng là hạng khéo ở trong hạt nầy.
Cực vì nước uống quá gay, Nước mưa nước giếng vừa may đủ xài.
Ngay theo thiết-lộ đường dài, Giáp qua ranh Mỷ một vài ga xe.
Hai bên vườn ruộng phủ che, Súp lê xe thỗi chúng nghe om trời.