Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhứt/Chợ Lớn

Chợ-Lớn

Chợ-lớn phong cảnh thi:

Dời đổi nguồi thương cảnh nước non,
Phiền hoa Chợ-lớn giáp Sài-gòn.
Dục-anh rực rở lầu đôi lớp,
Mai-tự sum sê lủy một hòn.
Tham-biện Xả-tây Cò-bót đủ,
Minh-hương Chùa-phật Miểu-đình còn.
Kể sau cho hết bề thanh lịch,
Nho nhã phong lưu dấu chẳng mòn.

Chợ-lớn giáp ranh Sài-gòn, Đường xe ngựa chạy thẳng bon nữa giờ.
Xe lữa lớn nhỏ hai bờ, Một bờ đường giữa một bờ đường sông.
Dai cù bốn phía rộng thông, Dọc ngang ngả ngách thảy đồng có tên.
Rạch kinh ghe đậu kẹo lền, Phố phường lầu cất ở trên chỉnh tề.
Nhà máy bảy sở bộn bề, Tiệm kia tiệm nọ ê hề bán buôn.
Người thanh ở đó dư muôn, Làm ăn nghề nghiệp như nguồn nước sung.
Kẻ nghèo lảnh việc làm công, Người giàu giúp sức không lòng ghét nghi.
Trước sau tin cậy phải nghì, Chẳng hề tham lạm chẳng khi ngại tình.
Hùn nhau thương mải kinh dinh, Thường niên tính sổ phân minh vốn lời.
Nước Nam nhơn tánh ở đời, Ghét người thắng kỉ sợ người hóa nghi.
Vậy nên cát hản công-ti, Nhát gan nhỏ bụng ít khi lập thành.
Chẳng bằng người nước Đại-thanh, Tề tâm hiệp lực dinh sanh xa vời.

Sống thời sanh lý ở đời, Chết thời nghĩa-địa sẳng nơi chôn về.
Mảnh xương thâu trử đề huề, Chẳng cho thất lạc bộn bề tấm thân.
Nặng nề xâu thuế cấp cần, Mà hay dều dắc đở lần nhau đi.
Tan bồng hồ thĩ nam nhi, Phải nhơn phải nghĩa phải nghì tương thân.
Thói hay kỉnh phụng quỉ thần, Ở đâu chùa miễu lo phần vỉnh vi.
Hà-chương Hội-quán ai bì, Ôn-lăng Thất-phủ hạn nhì hạn ba.
Các chùa còn lắm xa hoa, Thờ Ông Phước-đức thờ bà Thai-sanh.
Thiên-hậu thánh-mẫu rất linh, Quan-công-thánh-đế lịch xinh tượng hình.
Vái van cúng tế kỉnh thành, Xin xăm cầu thuốc rập rình ngày đêm.
Thường khi sông biển thuận êm, Bạc ngàn trả lể chẳng hềm tốn hao.
Cộ chưng không sót Bang nào, Đua nhau khéo vụng lao xao trăm bề.
Các phương hỉ cúng lạc dề, Có dư thì để của về công nho.
Lợi vào trước nhỏ sau to, Cho vay cất phố xúm lo bồ chì.
Tục hay thượng quỉ háo thi, Lại hay tin tưởng những kì dị đoan.
Giấy tiền vàng bạc tro tàn, Mua ra phí đến muôn ngàn như không.
Tập quen lâu đã tràng đồng, Đã hay bắc chước mà lòng tự nhiên.
Đời nay chuyện thấy nhản tiền, Các nước đều có thói riêng rỏ ràng.
Nghề buôn thứ nhứt khôn ngoan, Hai là nghề thợ lại càng khéo lanh.
Cuộc chơi Chợ-lớn Châu-thành, Mỗi đêm hao tốn chứa dành tiền muôn.
Các trường diển hí giải buồn, Bạn Nam bạn Quản hát tuồng cũng vui.
Đầu hôm đông đảo tới lui, Chổ đèn năm ngọn ăn ngồi xuê xan.
Bán đồ ăn uống nhẩy tràng, Bá ban thập vật bỉ bàn lại qua.
Lầu-xanh chổ khách vô ra, Treo lồng đèn hiệu trước nhà nhởn nhơ.
Giọng ngâm giọng hát ngẩn ngơ, Trêu hoa ghẹo nguyệt phỉnh phờ ấp yêu.
Tiềng bạc không đặng bao nhiêu, Trong năm bảy cắt mà liều bỏ thân.
Mối mang miễn tới cho cần, Rước đưa đưa rước mấy lần cũng xong.
Những còn Nhựt-bổn Quản-đông, Đỉ mà sửa soạn chổ phòng khiết tinh.
Nhộn nhàn ong bướm đem tin, Lớp lui lớp tới kình kình ngựa xe.
Mượn màu son phấn trẻ khoe, Dập dồi sóng sắc một bè gió trăng.
E khi bịnh hoạn không chừng, Có Quan thầy-thuốc mỗi tuần lục xi.
Mấy con lo lậu bất kì, Đi hoan trốn thuế lắm khi tiềm tàn.
Tú-bà phỉn dỗ khôn ngoan, Trau tria nhan sắc coi càng thêm duyên.
Khách sang rước chở đầy thuyền, Miển cho đẹp ý bạc tiền sá chi.
Lắm trang nho nhả nam nhi, Ngở là vưu vật khả di nhơn tình.
Ai dè nó quá phong tình, Đa dâm uế trược cả mình không kiên.
Rủi ro độc khí nhiểm truyền, Dương-mai bịnh phát khốn điên có ngày.
Bỡi vì không có quan thầy, Không ai xem xét nên rày sanh đau.
Tuần do ngăn đón trước sau, Thằng bắt con gái tróc câu dẩn về.
Chủ hoa chực lãnh tư bề, Đứa mô có bịnh đem về nhà-thương.
Nước nhà phép nhặc chiêu chương, Chẳng kiên chẳng sợ cứ vương vấn hoài.
Độc truyền cả gái cả trai, Biết đâu mà chuột thuốc bài trừ căn.
Các quận phong tục làm ăn, Có đặt Hộ-trưởng coi dân châu thành.

Xả-tây lầu cất rộng thinh, Của trong thành phố phân minh mối giềng.
Sài-gòn so lại bực tiên, Sau thì Chợ-lớn của tiền biết nhiêu.
Coi ra thâu xuất rất đều, Càng thêm thanh lịch càng nhiều phiền ba.
Dục-anh mới lập một tòa, Lầu đài thứ lớp thật là lịch xinh.
Khuôn viên ở dựa châu thành, Hai bên rộng rãi đành rành nghiêm trang.
Ổn-bà tánh hạnh diệu dàng, Học chuyên phép mụ kỉ càng không sai.
Chuyện làm phước đức lâu dài, Dựng nên cơ chỉ hơn vài ba năm.
Thương người thai sảng lỗi lầm, Bày ra có chỗ nuôi cầm trẻ thơ.
Nguyễn-Thân vừa lúc ơ hờ, Gặp người làm phải mặt ngơ bao đành.
Cúng ba trăm bạc lấy tình, Củng là nghĩa cử mĩ danh lưu truyền.
Đu-Ê (Drôuhet) người có đức hiền, Vợ chồng gầy dậng mối diền mở mang
Nam-kỳ phụ nử muôn ngàn, Đội ơn chẳng khác rỏ ràng thân sanh.
Các nơi cò bót xanh quanh, Thủy hỏa đạo tặc tuần hành đa đoan.
Tham-biện phần coi tổng làng, Lầu cao dinh rộng tứ bàn khuôn viên.
Học trường dạy dỗ công siêng, Trường quan trường tổng sanh viên dập dều.
Nhà thờ nhà phước mĩ miều, Cả trong toàn hạt cũng nhiều chổ danh.
Hiên, Kì, sự nghiệp thân vinh, Ông Lương-minh-Ký lạc tình y gia.
Ngoại khoa đắt pháp Hoa-đà, Huề nang lai việt phương đa diệu huyền.
Nam-kỳ sỉ thứ quan viên, Mông ân tế cứu lịch niên danh trì.
Hiện tồn chơn tượng dung nghi, Y quan chỉnh túc tu mi lão thành.
Tâm điền lưu giữ hậu canh, Lang tôn quế tử ninh hinh mãng đình.
Biển liên đề tặng phân minh, Chiêu chương sự tích gia thinh huy hoàng.
Châu thành đủ các cữa hàng, Hàng Tây hàng Bắc với hàng Xiêm Mên.
Hàng Chà hàng Chệc hai bên, Mấy từng lầu cát dước trên ở đầy.
Hướng-Dương tiệm lập cũng hay, Đở cho thiên-hạ như vay nhẹ lời.
Thiếu chi tộc hậu các nơi, Sanh nhai đắt ý ăn chơi không nhàm.
Thiếu chi thầy thợ việc làm, Các ông Địa-lý luận đàm thấp cao.
Y sanh kể hết xiết bao, Duy ông Chức-Tượng tuổi cao phải thầy.
Lòng nhơn giúp chúng lâu nay, Nghĩa phương giáo tử vui thay thọ tràng.
Thầy Cát-chú, cũng bộn bàn, Thầy-bói thầy-tướng dọc ngang hiệu đề.
Làm ăn sở cậy có nghề, Ít năm đem bạc trở về cố thôn.
Lại thêm các sãi thuyền môn, Ở bên Hương-cãng nghe đồn nước Nam.
Nhơn khi chùa miễu việc làm, Thiêu hương kiến tiệu thỉnh đam sang thường.
Thầy chùa ở tại địa phương, Tụng kinh chịu đám phố phường các nơi.
Hoặc là tuần tự cúng mời, Cúng sao cúng hạn theo đời cũng xong.
Thầy-pháp khiển tướng sai đồng, Ráng hơi hò hét Bà-hồng lên ngang.
Chầu mời thì rước bóng chàng, Thầy-dò thầy-quẻ hay bàn hơn thua.
Thợ-bạc đắt đủ bốn mùa, Thợ-may chỉ đắt một mùa đông thiên.
Thợ-đá làm cũng khá tiền, Thợ-thêu liển trướng liền liền cã năm.
Thợ-mộc năn trử hàng nằm, Thợ-sơn thợ-cẩn bạc trăm có thường.
Lại thêm các thợ nhiểm-phường, Các lò thợ-đúc tỏ tường khuôn viên.
Ảm-công đồ sắm nhiều tiền, Sang hèn hai hạng theo miền dinh quê.

Đồ ông Hộ-Bảo phủ phê, Người nay đã mất mà nghề còn quen.
Mười giờ tối, đi có đèn, Phòng quân gian tế lộn xen u hòa.
Kể ra các chỗ danh gia, Thuở đời quan cựu có nhà Trịnh-công.
Ngài xưa tá vận Gia-Long, Tên là Hoài-Đức hiếu trung trọn nghì.
Lưu truyền tập Cấn-Trai thi, Gia-định Thông-Chí đều thì ích nhơn.
Phải là phẩm trọng Đẩu-sơn, Dưới trăm năm hẫy còn cơn cãm hoài.
Ông Hộ-Vấp danh chẳng phai, Giàu mà nhơn đức ít ai sánh bằng.
Nhớ khi Ngủ-quản đạo dân, Bị cơn biến loạn cơ bần lưu li.
Cả đoàn trốn đến Nam-kỳ, Đói no sống thác còn gì mà mong.
Ông Hộ xót xa trong lòng, Xin quan cho phép chẫn cùng đạo dân.
Bạc ngàn một thuở thi ân, Mà nay tiếng tốt xa gần ngợi danh.
Roi còn con cháu hiển vinh, Cho hay tích đức minh minh đến rày.
Ông Đổ-hửu-Phương ngày nay, Hưỡng nhờ phước thọ sum vầy thất gia.
Con trai lớn, vợ Lang-sa, Tên là cậu Chẩn nết na hiền lành.
Mình không ỷ thế quyền hành, Lại thêm có đức song sanh trai hiền.
Hầu cận Soái-gia toàn quyền, Thứ nam thi đậu nhãn tiền hiển van.
Con gái là cô Ba-Nhàn, Lấy chồng người nghệ tên Hoàng-trọng-Phu.
Cũng dòng khoa mụt văn nhu, Nay làm Tổng-đốc hoạn du Bắc-kỳ.
Nhà sang vật quới thiếu chi, Cập hàng dưỡng lảo tứ vi đá liền.
Tánh hay đải sỉ chiêu hiền, Một năm rước khách tốn tiền ngàn muôn.
Ngựa xe trước cửa luôn luôn, Phãi nơi phần phước vạt chuông một nhà.
Vẹn tròn danh giá tiếng xa, Bài thơ hưu trí trẻ già đọc van.
Quả nhiên phước lộc thọ toàn, Tiên nhơn thế trạch ngày càng lưu phương.
Tân-hòa sung thạnh thôn hương, Nhà-thờ Chợ-quán đống lương chỉnh tề.
Tốt tươi bông trái tư bề, Xứ nhiều lò đúc thật nghề tinh chuyên.
Một tòa Nhà-phước mối giềng, Ruộng vườn đất cát bạc tiền dinh dư.
Phãi là một chổ thiện từ, Phãi là vỉnh viển căn cư đời đời.
Đồng nam đồng nử thảnh thơi, Sớm khuya ăn học cập thời gia công.
Các bà nuôi dạy hết lòng, Tu hành phước đức ơn đồng thân sanh.
Nhà thương một sở thinh thinh, Giúp người bịnh hoạn dưỡng tình nhàn thân.
Đội nhờ phép nước thi ân, Làm ra có chổ cứu dân tai nàn.
Thuở kia ông Đốc-học quan, Tên Trương-vỉnh-Ký tánh càng hiền lương.
Tiếng tâm chử nghĩa ngoại phương, Chí công đi học dặm trường non sông.
Các quan thọ nghiệp rất đông, Truyện thơ các món dịch dùng quấc âm.
Dựng cờ giữa chốn Từ-lâm. Tiên phong đạo cốt thâm trầm ung dung.
Ơn vua Đồng-Khánh tặng phong, Thi chương ngự tứ Nam-trung ẩn-hiền.
Nay còn con nối mối giềng, Một nền lư mộ cận biên Thánh-đường.
Người đều hoài cảm tư lương, Đấu roi sánh vở tỏ tường mấy pho.
Thương ông Tổng-Nhiệm Cầu-kho, Mấy năm sáng tạo cơ đồ dọc ngang.
Công-ti lập tiệm sửa sang, Đặt người coi sóc lang chang bộn bề.
Sắm tàu hai chiếc chỉnh tề, Dạo chơi các sở khi về khi đi.
Bại thành há kể làm chi, Song le lạm dụng bỡi vì phi nhơn.

Người Nam thương cuộc ai hơn, Ngàn năm tiếng để còn cơn chạnh lòng.
Có người giàu lớn lạ lùng, Ông Lê-phát-Đạt Nam-trung ai tày.
Thật là cự phú đời nay, Con trai đều thảy dân Tây sang giàu.
Khen cho phú quí mưu sâu, Dạy con một cách nhiệm mầu đều nên.
Chia ra đâu đó vững bền. Thủ thành sự nghiệp dưới trên thuận hòa.
Sống thì cần kiệm khởi gia, Đến khi tương tữ vậy mà tâm linh.
Cúng vào Hội-thánh đinh ninh, Ba mươi muôn bạc để danh lâu dài.
Đặt tên tiếng nói không sai, Nhà-thờ Chợ-đuỗi truyền lai mối giềng.
Tượng Chúa ngó ra phía tiền, Trung gian là chỗ táng yên dai-thành.
Nay đà công cán sự thanh, Lể mừng khánh hạ tiếng lành thơm xa.
Ông Huỳnh-tịnh-Trai tuổi già, Công lao giúp nước cũng là bền dai.
Ở bên Cầu-muối lâu dài, Tại phòng Phiên-dịch tỏ tài mọi nơi.
Văn thơ các cuốn để đời, Quấc-âm-tự-vị rạng ngời thân danh.
Phải trang niên xĩ lảo thành, Chức làm Đốc-phủ lạc tình thung dung.
Hội-y mới lập bên sông, Khá khen gầy dựng nhọc lòng lắm thay.
Qui mô sự nghiệp mới bày, Nhờ trong Chợ-lớn mấy thầy giúp lo.
Bạc vàng cúng chẳng so đo, Tưởng làm vĩnh viễn cơ đồ bền lâu.
Ai dè việc chẳng khéo âu, Buỗi đầu hiệp ý mà sau trái lòng.
Người gọi rắn, kẻ nói rồng, Không bằng Thợ-bạc vung trồng Lệ-châu.
Lệ-châu thủ nghĩa cao sâu, Lệ-kiêm chói rạng Hãi-châu chiếu ngời.
Tề tâm hiệp lực ở đời, Khiêm cung lể nghĩa tánh trời tự nhiên.
Tục hay bày đặt chùa chiền, Thiện nam tính nữ của riêng lập thành.
Mùa Xuân tế lể nghiêm minh, Dưng bông hát bội rập rình ngày đêm.
Vãn lai thù tạt thuận êm, Kẻ công người của tình thêm phỉ tình.
Hoặc ai đau chết thình lình, Dưởng sanh tống táng phận đành chung nhau.
Dấu roi thói tốt về sau, Truyền cho con cháu bền lâu rạng ngời.
Chợ-lớn là chỗ ăn chơi, Cầm kì thi họa trải đời đẹp xinh.
Cổ bàn bánh trái có danh, Tục hẫy để dành tiếng cổ Minh-hương.
Chùa Minh-hương, cách khác thường, Coi ra thủy thổ quấc vương có lòng.
Long-phi hai chữ chánh trung, Lưởng bang tả hữu chữ dùng phụng lân.
Long là nghĩa trọng thánh-quân, Phụng lân nghĩa kính quần thần đống lương.
Đỗi dời mấy cuộc tan thương, Còn chùa để dấu khách thương cội nguồn.
Nhớ xưa sự tích cũng buồn, Gẫm nay thế biến chuyển buồn hóa vui.
Chùa-mai cảnh trước ngậm nguồi, Phong lưu sỉ nữ lắm hồi xuống lên.
Nay làm đồn lủy một nền, Lính tây canh gát riêng bên lâu dài.
Thuở đà triệt phá chùa mai, Nhơn sao tên củ còn hoài bởi đâu.
Vợ chồng Hộ-Yến nguyện cầu, Cất ra gần đó tốn âu bạc ngàn.
Dấu xưa không nở để tàn, Của nhà tự xuất rỏ ràng lạc huyên.
Đã đều về chốn huỳnh tiền, Phu thê linh sảng lên miền thiện giêng.
Chùa thí nước, ông Tôn-Hiền, Tu hành công quả nhọc siêng nhiều bề.
Thiệt thà giữ phận dốt quê, Giải thân khổ hạnh dựa kề Không-môn.
Nay đà siêu thác thần hồn, Dấu roi chất phát người còn cám trông.

Trụ trì ông Nguyễn-từ-Phong, Ở chùa Giác-hãi dưởng dung bấy chầy.
Gốc cô Hai-Liễu dụng gầy, Thêm nhờ Bổn-đạo ngày nay lập thành.
Từ-Phong có chí tu hành, Sảo tri nho học tánh lành không đua.
Cô Hai-Liễu rước về chùa, Bấy lâu hương hỏa bốn mùa thạnh sung.
Chợ Bà-hom ở giữa đồng, Thành-hoàng miễu vỏ đất giồng anh linh.
Chùa Long-thạnh, cảnh lịch xinh, Ông Hòa-thượng Hĩ học hành lắm công.
Văn chương kinh kệ khá thông, Dạy chư môn đệ học trong đạo thuyền.
Từ bi chữ dạ phật tiền, Thị phi thế sự không phiền đến tai.
Thầy chùa sáu tỉnh một ngài, Chẳng lòng trần lụy chẳng hoài lợi danh
Phải trang tu niệm lảo thành, Tương rau dưởng chí đã đành tự như
Phong thổ Chợ-đệm ngã tư, Cối xay với đệm dinh dư trữ nhiều.
Dân nhờ ruộng đất đủ tiêu, Làm ăn chắc chắn người đều thảnh thơi.
Bình-điền Bình-chánh các nơi, Hai bên đồng ruộng lộc trời phì nhiêu.
Bình-tây Rạch-cát ghe nhiều, Gò-đen Rạch kiến Rạch-đào chợ sung.
Hẩy còn noi dấu cổ phong, Ăn chơi đờn địch thung dung lắm nhà,
Thuở Cựu-trào, rạch Đôi-ma, Gần bên rạch Kiến cũng là sự linh.
Nguyên xưa Phạm-thị nữ trinh, Gả cho Nguyễn-Tánh học sanh vợ chồng.
Hỏi rồi mà cưới chưa xong, Hai người ruổi chết cũng trong một hồi.
Đôi bên cha mẹ ngậm nguồi, Nghĩ duyên tức tối sục sùi thở than,
Tữ đồng huyệt, sanh đồng sàng, Cho chôn chung lại một phan mộ phần.
Hồn linh hiển hiện nhiều lần, Người ta ngó thấy kêu rằng đôi ma.
Cách sông một khúc ngang qua, Có làng Đái-nhựt thờ mà Mai-hương.
Nắc-Thăm nguyên lúc nhiểu nhương, Rước binh Xiêm lại tranh cường giết anh.
Nắc-Yêm bôn tẩu Định-thành, Lịnh vua sai tướng hưng binh cứu nàn.
Hương làm Tào-vận tiểu quan, Quản coi một chiếc lương thoàn chở đi.
Quân Mên triệc ngã Bần-quì, Mai-công liệu thế hiểm huy nhản tiền.
Truyền quân lập tức đục thuyền, Mình cùng lương phạm xuống miền tiêu-tương.
Bỏ thân tách cỏi Trần-dương, Hồn chôn bụng cá phách nương hà phần.
Truy phong làm Tữ-nghĩa-thần, Ban tiền lập miểu kế gần Thủy-biên.
Nay còn tế tự thường niên, Nội làng hương-chức nhọc siêng phải nghì.
Bên miểu có cây bần-quì, Miểu ông bần-quì, tục-ngữ còn ghi.
Sông-tra lên xuống hằng khi, Ghe buôn tới đó đều thì vái vang.
Thương người trung liệc tữ nàn, Muôn năm huyết thực rở ràng tạc biêu.
Đường sông có sấu cũng nhiều, Bởi vì thanh vắn quạnh hiêu tư bề.
Ranh đất Gò-công giáp kề, Theo bờ đồng ruộng ngó mê cả ngàn.
Lắm quân trộm cướp tìm tàng, Các nơi chủ chứa trong làng thiếu chi.
Có người tuổi tác tu mi, Chức làm Linh-mục vậy thì tên Đoan.
Lão thành tánh nết kỉ cang, Sảo thông nho đạo tập nhàn y-phương.
Ham vui từ điệu văn chương, Thi thơ mảng tháp phô trương luận bàn.
Đã về hưu-trí dưởng nhàn, Lương-hòa An-hạ, tổng, làng đều thương.
Nay đà lên chốn Thiên-đường, Dấu roi mô phạm chúng thường ngợi tôn.
Trường riêng các chổ xã-thôn, Tứ-thơ, Ấu-học, lưu tồn văn phong.

Trẻ con đi học cũng đông, Tập làm đối đoạn gia công trao dồi.
Chợ-quán có trường học Đui, Bày ra cách dạy chữ dùi cũng hay.
Rờ vào biết nét vạy ngay, Tiếng tâm chữ nghĩa trong tay lập thành.
Bỡi nhờ ơn nước rộng tình, Thương công Thầy-Chí học hành linh tinh.
Ruổi ro lưởng mụt thất minh, Cắp bằng cho chức dạy mình trường Đui.
Hậu ban bổng lộc dưởng nuôi, Vợ con no ấm đặng vui phận nhàn.
Tốt thay bảy chục hai làng, Quan hôn tang tế tục càng thuần lương.
Nơi nơi nghiêm chỉnh Thánh đường, Tu bồi Phật-tự chấn trương Thần-đình.
Sỉ nông công cỗ lạc tình, Vản lai thù tạc hòa bình tiếp giao.
Châu-thành đất lịch người hào, Gần đồn Mai-tự có ao sen đầy.
Bông hoa cây trái nhặc dày, Rẩy trồng phẩm vật đủ rày thứ rau.
Gần tết bất kì ở đâu, Mẩu-đơn, phật-thủ, gánh hầu nhà sang.
Mồng-gà, bạch-cúc, sữa đang, Quít, cam, trong chậu sẳng sàng trái tươi.
Ơ bên Hương-cảng các nơi, Chở qua Tây-cống cho người thưởng xuân.
Hoặc dân bổn hạt chuyên cần, Liệu ngày trồng sửa nhằm chừng không sai.
Thiều quan chín chục thẳm dài, Chơi năm ba bữa nào ai hẹp dùng.
Phong lưu nho nhả khiêm cung, Y quan tề chỉnh đờn ông lịch đời.
Đờn bà vòng chuổi chói ngời, Áo quần đẹp đẻ nói cười thanh bai.
Phấn hương xông ướp dồi mài, Lênxe xuống ngựa sắc tài xuê xan.
Lắm khi lảng phí chẳng màng, Gặp cơn bài bạc trâm ngàn sá bao.
Đánh đề với đánh bài cào, Chẳng kiên quấc cấm ra vào nghinh ngang.
Du-côn lắm kẻ bạo tàn, Xanh quanh Chợ-lớn nhẩy tràng đảng phe.
Trong mình thích tự không ghê, Củ chì, tay sắc, lưởi lê, dòm rình.
Thừa cơ ngộ sự bất bình, Hừng hừng nổi giận đánh inh giữa trời.
Ruổi may chết sống như chơi, Coi nơi Khám-lớn ví nơi cửa nhà.
Từ khi thâu thủ nước ta, Triều đình Đại-pháp ơn ra bảo toàn.
Ngày càng đổi cuộc hèn sang, Bạc vàng tiêu phí cả ngàn cả trăm.
Mới đây hơn bốn mươi năm, Các nhà còn lại bao lăm cang thường.
Thật là thiên đạo chủ trương, Khiến người tan hiệp một trường bi hoan.
Tục hay tin sự dị đoan, Sài-gòn Chợ-lớn rộn ràng thiếu chi.
Vài năm thì có chuyện kỳ, Gốc nơi các chú thị phi bày đều.
An-nam hay bắt chước theo, Mấy người tu núi dặp dều lăng xăng.
Ghe phen phép nước khuyên răng, Tha rồi lại phạm năn năn ở tù.
Thương thay Thánh đạo trăng vu, Ai minh đường chánh ai xu lẻ tà.
Tánh người mềm diệu thiệt thà, Thấy đâu tin đó cũng là thói chung.
Lại ưa tiếm đỏ điều hồng, Lắm khi sắc đỏ đem dùng phô trương.
Bính-đinh hỏa tại Nam phương, Hoàng-triều thượng xích tục thường chuộng yên.
Hẩy còn câu hát tục diêu, Nói luôn cho biết mỉ miều giọng ca.
Ai mà thấu đặng lòng ta, Ta cho một vót Hồ-la nhuộm điều.
Hai mươi hai hạt thảy đều, Trừ ra tang sự đỏ nhiều cách sang.