1665Thứ này tới thứ ra đời[1],
Vân Tiên thuở trước ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kể từ nhiễm bệnh đường xa,
1670Đến nay kể lại trót đà bốn năm.
Tuổi cha nay đã năm lăm,
Chạnh lòng nhớ đến đầm đầm lệ sa.
Vân Tiên trở lại quê nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
1675Tiên rằng: "Ta lại cố hương,
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay".
Minh rằng: "Nay vốn chẳng may,
Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
Dám đâu bày mặt ra thi,
1680Đã đành hai chữ quy y[2] chùa này".
Tiên rằng: "Chí đặng tán mây,
Ngày sau cũng tính sum vầy với nhau.
Bốn năm hẩm hút tương rau[3],
Khó hèn còn nợ sang giàu nỡ quên.
1685Lúc hư cũng có lúc nên,
Khuyên ngươi giữ dạ cho bền thảo ngay".
Hớn Minh ở lại am mây,
Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi.
Lục ông nước mắt tuôn rơi,
1690Ai hay con sống trên đời cùng cha.
Xóm làng chú bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
Ông rằng: "Trót đã bốn năm,
Con mang tật bệnh ăn nằm nơi nao?"
1695Tiên rằng: "Hoạn nạn xiết bao,
Mẹ tôi phần mộ nơi nào đã an?"
Đặt ra lễ vật sẵn sàng,
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh[4]:
"Suối vàng hồn mẹ có linh,
1700Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
Tưởng bề nguồn nước cội cây[5],
Công cao ngàn trượng ơn đầy chín trăng[6].
Suy người nằm giá khóc măng[7],
Hai mươi bốn thảo[8] chẳng bằng đời xưa".
1705Vân Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi lại hỏi việc xưa ở nhà.
Ông rằng: "Có Kiều Nguyệt Nga,
Bạc vàng đem giúp cửa nhà đặng xuê.
Nhờ nàng nên mới ra bề[9],
1710Chẳng chi khó đói ở quê hư rồi".
Vân Tiên nghe nói hỡi ơi!
Quyên tình nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu?
Cho tôi tới đó đáp câu ân tình".
1715Lục ông gọi việc triều đình,
Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên.
"Kiều công rày ở Tây-xuyên,
Cũng vì mắc nịnh cướp quyền[10] đuổi ra".
Tiên rằng: "Cảm nghĩa Nguyệt Nga
1720Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng".
Tây-xuyên mấy dặm thẳng xông,
Tới nơi ra mắt Kiều công khóc liền:
"Nàng còn ở chốn nước Phiên,
Biết sao gặp được Vân Tiên buổi này.
1725Mấy thu Hồ Việt đôi phang[11],
Cũng vì máy tạo én nhàn rẽ nhau.
Thấy chàng dạ lại thêm đau,
Đất trời bao nỡ chia bâu[12] cho đành?
Hẹp hòi đặng chút nữ sanh,
1730Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn[13]".
Nói rồi lụy nhỏ đôi cơn,
"Cũng vì một sự oán hờn nên gây.
Kiều công khiến ở lại đây,
Hôm mai thấy mặt cho khuây tấm lòng".
1735Vân Tiên ở một năm ròng,
Ôn nhuần kinh sử đề phòng ra thi,
Đứa nghe rày đã đến kì,
Vân Tiên vào lạy xin đi ứng trường.
Về nhà từ tạ nghiêm đường,
1740Kinh sư[14] ngàn dặm một đường thẳng ra.
Vân Tiên trúng Trạng nguyên khoa[15],
Nghĩ ra năm tý thực là năm nay.
Thuở xưa thầy nói rất hay,
Bắc phương gặp chuột ra rày nên danh.
1745Vân Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban đai mạo cho vinh quy rày.
Xẩy nghe tin giặc Phiên-tây,
Binh vây ngoài ải đã đầy thỏ sơn.
Sở Vương phán trước ngai vàng,
1750Trạng nguyên ra sức dẹp loàn cho xong[16].
Trạng nguyên quỳ trước bệ rồng:
"Xin cho một tướng nhau cùng đề binh[17].
Có người họ Hớn tên Minh,
Sức đương Hạng Vũ mạnh kình Trương Phi.
1755Ngày xưa mắc án đầy đi,
Nay về ở núi Thúy Vi ẩn mình".
Sở Vương phán trước triều đình,
Dạy ra tha tội Hớn Minh đòi về.
Tiên phong hai chữ cờ đề[18],
1760Hớn Minh rày được[19] dựa kề Vân Tiên.
Nhứt thinh phấn phát oai lôi[20],
Tiên phuông hậu tập[21] trống hồi tấn binh.
Quan sơn ngàn dặm đăng trình,
Lãnh cờ bình tặc[22] phá thành Ô-qua.
1765Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.
Đều đem binh mã đi liền[23],
Xông sương đạp tuyết tới miền ải quan[24].
Bên Phiên hai tướng đường đường,
1770Một chàng Hỏa Hổ một chàng Thủy Long.
Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt thao tóc đỏ tướng hung lạ lùng.
Hớn Minh ra sức tiên phong,
Đánh cùng Hỏa Hổ Thủy Long một hồi.
1775Hớn Minh gậy xuống lôi đình[25],
Hai chàng đều phải một thời mạng vong.
Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai ngươi xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn ra sức mạnh địch kình,
1780Thấy chàng hóa phép giật mình chạy lui.
Vân Tiên đầu đội kim khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô[26].
Một mình nhằm trận xông vô,
Cùng ngươi Cốt Đột đánh cho tối ngày.
1785Vội vàng quày ngựa bằng nay,
Truyền quân lấy máu đề ngay ngọn cờ.
Ba quân gươm giáo đều giơ,
Hỏa ma xem thấy một giờ đều tan.
Phép ra Cốt Đột kinh hoàng,
1790Bừng bừng nổi trận đánh cùng Vân Tiên.
Vân Tiên bước tới trận tiền,
Cùng ngươi Cốt Đột đánh liên tối ngày.
Sa cơ một phút chạy ngay,
Trạng nguyên giục ngựa kịp rày đuổi theo.
1795Trải qua vừa đặng bảy đèo,
Cảm thương Cốt Đột vận nghèo nài bao[27].
Chạy ngang qua núi Ô-sào,
Phút đâu con ngựa sa hào thương ôi!
Trạng nguyên chém Cốt Đột rồi,
1800Đầu treo cổ ngựa trống hồi thu quân.
Chư quân bốn phía đều lăng,
Trời đà tối mịt biết chừng gần xa.
Trong mình đã đói xót xa,
Một mình trong núi biết ra ngõ nào[28].
1805Xoay quanh trong núi Ô Sào,
Nửa đêm bàn luận đường vào ngõ ra.
Thứ này tới thứ Nguyệt Nga,
Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Đêm ngày chong ngọn đèn ngồi,
1810Chẳng hay trong dạ bồi hồi chuyện chi:
"Quan-âm lời trước còn ghi,
Xuy nên dạ thiếp éo le giãi hoài.
Đã đành đá nát vàng phai,
Đã đành xuống chốn tuyền đài gặp nhau.
1815Khôn trông mồng bảy đêm thu,
Khôn trông bầy quạ đội cầu đưa sao[29].
Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau".
Nguyệt Nga chưa xiết nỗi sầu,
1820Xẩy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
Đường về quan ải chỉ ra cho mình".
Nguyệt Nga ngồi sợ làm thinh,
Trạng nguyên xuống ngựa tay xông lần vào.
1825Lão bà dậy hỏi người nao:
"Đêm khuya lạ mặt dám vào nhà ta?"
Rằng: "Tôi quốc trạng Sở gia,
"Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
Đem binh dẹp giặc Ô-qua,
1830Vì theo dẹp giặc Ô-qua lạc đường".
Lão bà nghe nói kinh hoàng:
Tiêm trầu quật nước vội vàng bưng ra.
Trạng nguyên ngồi nhắm Nguyệt Nga,
Thoạt nhìn bức tượng lòng đà sinh nghi.
1835Hỏi rằng: "Tượng ấy tượng chi,
Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
Đầu đuôi chưa tỏ sự tình,
Lão bà há nói tính danh cho tường".
Lão bà chẳng dám nói gian:
1840"Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây".
Trạng rằng: "Nàng xích lại đây,
Nói trong tên họ tượng này ta nghe".
Nguyệt Nga dạ hãy hồ nghi,
Liếc nhìn tòng mặt lại e lạ người.
1845Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Trạng nguyên xem thấy mỉm cười một khi.
"Làm sao nàng chẳng nói đi,
Mấy lời ta hỏi giống gì chẳng ra?"
Nguyệt Nga thấy hỏi thưa qua:
1850"Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
Chàng đà về chốn cửu tuyền,
Thiếp vì thương nhớ lánh miền gió trăng".
Trạng nguyên khi ấy hỏi phăn:
"Chồng là tên ấy vợ là tên chi?"
1855Nguyệt Nga tỏ sự một khi,
Trạng nguyên vội vã xuống quì vòng tay.
Thưa rằng: "Nay gặp nàng đây,
Xin đưa bốn lạy sẽ bày nguồn cơn.
Mấy lời thệ hải minh sơn[30],
1860Mang ơn trước phải tạ ơn cho rồi.
Vân Tiên vốn thiệt tên tôi,
Gặp nhau nay đã phỉ hồi ước ao".
Nguyệt Nga bảng lảng bơ vơ[31],
Nửa mừng nửa sợ nửa ngờ rằng Phiên.
1865Thưa rằng: "Chàng phải Vân Tiên.
Nói ra[32] lúc trước căn nguyên những là".
Trạng nguyên nói tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc hòa như mưa
Ân tình càng kể càng ưa,
1870Đương còn bàn bạc trời vừa sáng ra.
Xẩy nghe quân hét vang dời,
Bốn bề bờ bụi đều vầy can qua.
Trạng nguyên lên ngựa trở ra,
Ngọn cờ đề chữ tên là Hớn Minh.
1875Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.
Minh rằng: "Lương tẩu[33] ở đâu,
Cho em ra mắt chị dâu thế nào?"
Trạng nguyên đem Hớn Minh vào,
1880Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào quý viên.
Minh rằng: "Tưởng chị ở Phiên,
Quyết đem binh mã tới miền Ô-qua.
Nay đà sum họp một nhà,
Giặc đà an giặc âu ca hồi triều".
1885Trạng rằng: "Nàng tính làm sao?"
Nàng rằng: "Anh hãy hồi triều tâu lên.
Ngỏ trông lượng rộng bề trên,
Xin tha tội trước mới nên những là".
Trạng nguyên từ tạ lão bà,
1890Dặn dò gửi lại Nguyệt Nga ngày rày:
"Ta thì lấy bức tượng này,
Tâu qua khỏi tội rước ngay về nhà".
Tiên Minh hai ngựa trở ra,
Đem binh trở lại triều ca một bề[34].
1895Sở Vương nghe trạng nguyên về,
Cho quan ra rước vào kề bên ngai.
Sở Vương bước xuống kim giai,
Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên.
Phán rằng: "Trẫm sợ nước Phiên,
1900Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
Nay mà trừ Cốt Đột xong,
Thực trời sinh trạng giúp trong nước nhà.
Ví dầu trước có trạng ra,
Làm chi đến nỗi Nguyệt Nga cống Hồ".
1905Lệnh truyền đãi yến triều đô,
Ăn mừng rày đã Tây Ô dẹp rồi.
Trạng nguyên quì tấu một hồi,
Nguyệt Nga các chuyện đầu đuôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu căn nguyên,
1910Phán rằng: "Trẫm tưởng nàng còn ở Phiên.
Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên,
Cùng nhau thuở trước khóc duyên lúc đầu".
Thái sư trước bệ liền tâu:
"Tây-phiên dấy giặc bấy lâu[35] cũng vì
1915Trá hôn oán cựu còn ghi,
Nguyệt Nga nàng ấy tội khi đã đành".
Thái sư ôn tấu triều đình,
Nào căn nguyên trước sự tình những chi.
Trạng nguyên ra trước bệ quỳ,
Dâng lên bức tượng một khi làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng:
1920"Nguyệt Nga trinh tiết cũng bằng người xưa,
Ở đời sao chẳng biết lừa,
Thiếu chi con gái mà đưa tới nàng.
Dầu cho nhật nguyệt rõ ràng,
Khôn soi chậu úp[36] cũng mang tiếng đời.
1925Xuống trời ai dám cãi trời,
Việc này vì trẫm nghe lời Thái sư".
Trạng nguyên tấu sự Thái sư:
"Làm tôi chẳng đặng lại tư oán thầm.
Gia thêm nỗi gã Trịnh Hâm,
1930Trịnh Hâm thuở trước mưu thầm hại tôi[37].
Nay đà rõ mặt nịnh rồi,
Ngưỡng trông lượng thánh tài bồi thế nao?"
Sở Vương trần phán trong triều:
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền[38] mà thôi.
Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi,
Thái sư muốn tính lý nào ngày sau[39].
1935Hay là Đổng Trác mưu sâu[40],
Nuôi trông Lữ Bố phòng âu Hán quyền.
Hay là Nguyên Tải mưu riêng,
Nuôi thằng Tước Ngạn mong chuyên nhà Đường.
Hay là An Thạch thói gian,
Nuôi thằng Tần Biện phòng toan Tống triều.
Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái sư chỉn có khác nào Tào ôi.
Toan chuyên ngẫm ỷ ngôi trời,
1940Thấy người trung chính kiếm lời sàm pha.
Đến nay mới tỏ chính tà,
Cũng vì thuở trước tại ta lỗi dùng".
Thôi thôi ta cũng rộng dung:
"Thái sư cách chức về cùng dân gian.
1945Trịnh Hâm là trẻ bạo tàn,
Giao cho quốc trạng mặc toan phép hình.
Nguyệt Nga là gái trung trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh cho nàng.
Kiều công phục chức Thái-khanh,
1950Lại phong tuần phủ Đông-thành trị dân.
Trạng nguyên thực đấng lương thần,
Sắc phong Tướng quốc trước hàng công khanh".
Hớn Minh phong chức tổng binh,
Anh em mừng tạ đan đình đều lui.
1955Họ Vương họ Hớn họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.
Trạng rằng: "Xin hỏi một lời:
"Trịnh Hâm tội trước các người tính sao?"
Tả đao dẫn Trịnh Hâm vào,
1960Mặt nhìn thấy bạn miệng chào rằng anh.
Minh rằng: "Ai mượn kêu anh?
Trước đà đem thói chẳng lành thì thôi.
Dẫn ra chém quách cho rồi,
Để chi gai mắt khó ngồi cẩm gan".
1965Trực rằng: "Anh chớ nói ngang,
Giết ruồi ai dụng gươm vàng làm chi.
Xưa nay mấy đứa vô nghì,
Dầu cho nó sống làm gì thành thân?"
Hâm rằng: "Nhờ lượng đại nhân,
1970Vốn tôi mới dại một lần xin dung".
Trạng rằng: "Ta đấng anh hùng,
Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
Thôi thôi ta cũng rộng suy,
Truyền quân mở cửa đuổi đi cho rồi".
1975Trịnh Hâm khỏi chết mừng vui,
Vội vàng quỳ lạy xin lui ra về.
Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê,
Hổ ngươi cáo bệnh xin về kẻo lâu.
Hớn Minh Tử Trực vào tâu,
1980Xin đưa quốc trạng kịp chầu vinh qui.
Một người Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng đà thẹn cũng vì hổ thay.
Trạng nguyên xa giá vội vàng,
Sai quân hộ vệ rước nàng Nguyệt Nga.
1985Bạc vàng đem tạ lão bà,
Rước nàng đưa tới thẳng qua Đông-thành.
Võng điều lộng đỏ rèm xanh,
Trạng nguyên Tử Trực Hớn Minh lên đường.
Trịnh Hâm về tới Hàn-giang,
1990Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm phải cá nuốt thây,
Thực trời quả báo lẽ này rất mau.
Làm người chẳng nghĩ trước sau[41],
Mưu sâu lại mắc họa sâu chẳng chầy.
1995Tiểu đồng trước giữ mộ này.
Ngày qua tháng chọn đã đầy ba năm.
Tôi đi khuyên giáo mấy năm,
Tính đem hài cốt về thăm chủ nhà.
Hiềm vì chẳng có người ta,
2000Hãy còn thơ thẩn vào ra chưa về.
Trạng nguyên vừa tới Đại-đề,
Truyền quân che lộng tế hề đồng xưa:
"Tưởng tình sư đệ quá ưa,
Cũng vì họ Trịnh thuở xưa mưu thầm?"
2005Đọc văn phối động trong lòng,
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
Xẩy đâu trời đất khéo đưa,
Tiểu đồng chạy tới đứng vừa một bên.
Ngó vào bài vị thấy tên,
2010Trạnh lòng đồng mới[42] khóc lên bấy giờ.
Trạng nguyên ngó lại thờ ơ,
Nửa tin rằng tớ nửa ngờ rằng ma.
Tay lau nước mắt bước ra,
"Tiểu đồng con ở đâu mà tới đây?"
2015Thì con há nói cùng thầy,
"Căn do chưa rõ cớ này làm sao?"
Tiểu đồng đặt gối tâu vào,
Bấy lâu luống chịu âm hao rãi rầu[43].
Bài lời tự sự đuôi đầu[44],
2020Ba năm luống chịu thảm sầu tới nay.
Bây giờ tớ đã gặp thầy,
Vinh hoa một thuở xum [?] cơn mầu.
Trạng nguyên xa giá rẽ lên,
Phút đâu[45] đã tới gần miền Tần-giang.
2025Võ công từ xuống suối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đau sầu.
Mẹ con những mảng lo âu;
"Nghe Vân Tiên sống gặp triều công danh.
Rằng ta xưa cũng ân tình,
2030Phải ra đón rước chàng vinh quy rày".
Loan rằng: "Mình ở chẳng hay,
E người còn nhớ những ngày trong hang".
Trang rằng: "Con có hồng nhan,
Cho chàng thấy mặt thì chàng ắt ưa.
2035Ví dầu có nhớ tích xưa,
Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công".
Cùng nhau bàn luận đã xong,
Soi gương đánh sáp má hồng[46] rước duyên.
Nay đà tới lúc trạng nguyên,
2040Hàn-giang về tới xẩy liền đóng quân.
Bạc vàng châu ngọc áo quần,
Trạng nguyên đem tới đền ơn ngư tiều,
Ngư tiều rày đã danh tiêu[47],
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
2045Trạng nguyên từ tạ ra về,
Thấy Quỳnh Trang tới ngồi kề tróc quân.
Thể Loan trước giá khâm truyền,
Mẹ con tôi tới ra hầu trạng nguyên.
Phụ thân đã xuống hoàng tuyền,
2050Xin thương lấy thiếp thuyền quyên phận này".
Trạng rằng: "Bưng bát nước đầy.
Đổ ngay xuống đất hốt rày cho xong.
Oan gia nợ trước lỡ xong,
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi[48]".
2055Hớn Minh Tử Trực đều coi,
Nực cười: "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
Vâng cho lòng chẳng thẹn lòng,
Còn mang mặt tới biểu bòng làm chi?
Minh rằng: "Sao chẳng ở đi[49],
2060Về cho tẩu tẩu tha khi xách giày".
Mẹ con đứng thì xuân thay,
Đều bèn từ tạ thưa rày bước ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai ông cọp chạy ra đón đường.
2065Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem về lại bỏ trong hang Thương-tùng.
Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc khôn trông đứng ngồi.
Đời xưa lỡ nỡ mấy hồi,
2070Tiếc thay son phấn điểm mùi bấy lâu.
Hỡi người làm vợ người sau,
Gặp khi hoạn nạn cùng nhau vuông tròn.
Đừng còn bắt chước mẹ con,
Thác đà mất kiếp tiếng còn bia danh.
*
* *
2075Trạng nguyên về tới Đông-thành
Lục công nay đã xây dinh ở làng.
Bày ra lục lễ[50] sẵn sàng,
Các quan đi hộ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đã xứng sui gia,
2080Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm thùy rạng tinh thần,
Sinh con được nối gót lân[51] đời đời.
Hiềm vì cách trở đôi nơi,
Nên chi phải tả vài lời ngâm nga.
Để mà chờ đãi nho gia,
Phải tu tiết hạnh mới ra lịch người.
Đành còn bày nghĩ sự đời,
Căn do từ ấy hỏi trời mà thôi.