XIX

Hoàng-thượng từ khi sai bọn bồi-thần sang Tàu trần-tình cầu-cứu, vẫn lẩn-lút ở hạt Kinh-bắc. Lúc ấy vừa thấy Lê Duy-Đản ở Thái-bình về báo tin Đốc-bộ Quảng-tây đã đem công-việc đệ tâu và đã được chỉ ưng-chuẩn, bất-nhật đại-binh sẽ sang, lại thấy Lê Quýnh ở Long-châu về, nói rằng: Thái-hậu, Hoàng-hậu hiện ở Nam-ninh, khởi-cư yên ổn, ngài rất mừng-rỡ, chắp tay lên trán và nói:

— Kẻ tiểu-tử này gặp nhà nhiều nạn, nhờ được chín miếu thiêng-liêng, đức Đại-hoàng-đế đoái thương nước nhỏ, trong nước lại được thấy bóng « thiên-nhật », cái cơ trung-hưng chắc ở lúc này.

Rồi ngài thảo tờ tạ-biểu, tạ ơn vua Thanh và bức bẩm thư đưa Tôn Sỹ-Nghị. Tờ bẩm đại-để nói rằng: « Quân giặc tàn-ngược, nhân-dân không thể chịu nổi. Tôi tuy phải chạy ra ngoài, nay được lòng người vẫn còn nhớ cũ, nên mới cử sự được một vài lần, chẳng ngờ đều bị thất-bại. Gần nay tiếp được di-văn, tức khắc mật-dụ hào-kiệt trong nước, ai cũng hăng hái phấn chí, thề giết quân giặc, mong được thượng-quốc phái quân sang cứu, nhờ cậy uy-linh, việc chắc phải nên. Mới rồi, lại tiếp hịch-văn, cho đi tuyên bảo thần-dân, ai cũng mừng rỡ, tưởng như chết rồi lại được sống lại. Quân giặc cũng phải mất vía. Hiện nay các xứ đều đã họp-tập nghĩa-dũng, chờ-đợi thiên-binh qua ải, sẽ đến cửa quân bái-kiến và xin vâng lệnh đi làm tiên khu, chắc sẽ bắt được đảng giặc lấy lại quốc-đô. Nghĩ như cái ơn « hưng diệt kế tuyệt » của đức Đại-hoàng-đế và đức gây-dựng của Thượng-hiến thật đáng ghi tạc, để cùng sông Lô núi Tản cùng cao lớn lâu dài! ».

Sĩ-Nghị vừa nhận tờ bẩm ở Trào-châu đưa lên, lại được thư của Hoàng-thượng đệ sang, tức thì hội-đồng với viên tuần phủ Quảng-tây, bàn việc tâu xin xuất sư, trong biểu đại-ý nói rằng: « Vâng lời thượng-dụ: « chỉ làm thanh-viện cho họ không nên dấy quân... » Tuân theo thánh-chỉ, thần đã tra xét kỹ-càng. Từ Chiêu-đức-đài đến quốc thành nước ấy, quân đi chẳng quá sáu ngày. Duy ở Lạng-sơn hơi có lam trướng, khỏi đó, thủy-thổ đều lành. Đại quân tiến lên đóng ở La-thành, cũng không nóng nực. Vả lại ở đó để mà trấn-diệu quân-dung, khiến giặc biết là không thể địch nổi, rồi mới phái cắt những quân ứng nghĩa nước họ chia ngả đi tiễu, tức là quân ta gươm không rây máu, mà quân giặc đều bị bắt giết. Thần trộm tính rằng chuyến này có thể thành công, đúng như những lời thánh-dụ. Lần trước để phải phúc đi tâu lại, thần tự biết là câu-nệ chậm chạp. Việc binh quí ở mau chóng, nếu như gặp được dịp tốt, thần há dám không hết sức tính toán công việc biên-thùy, để xứng đáng với ý « trách-thành » của bề trên? Còn như sau khi dẹp yên, các việc sửa sang nên như thế nào, thần sẽ dâng biểu tâu sau ».

Lúc sắp kéo quân lên đường, Nghị lại dâng tiếp một tờ sớ nữa, đại-khái nói rằng: « Họ Lê ở nước An-Nam đã yếu, sau này không chắc đã giữ được nước. Nay họ sang đây cầu viện, bản-triều theo nghĩa cần phải cứu giúp.

« Vả lại, nước An-Nam vốn là đất cũ của Trung-quốc, nếu như sau khi khôi-phục được cho họ Lê, nhân thể cho quân đóng thú ở đó, ấy là giữ cho họ Lê được còn, mà lại lấy được cõi đất An-Nam, thế là lợi cả hai đường ».

Tuần-phủ Tôn Vĩnh-Thanh không cho ý Nghị là phải, liền cũng dâng sớ chống lại, đại-để nói rằng: « Thiên-triều mượn tiếng khôi-phục họ Lê, họ Lê không thể giữ nổi, lại sai quan quân đóng ở nước họ, đó là khởi đầu bằng nghĩa, kết-cục bằng lợi, thần trộm cho là không nên.

« Nay họ Lê, họ Nguyễn hiện đang tranh nhau, họ Lê chắc bị họ Nguyễn gồm nuốt. Bất-nhược hãy đóng quân đó, không hành-động vội. Chờ khi họ đã mỏi mệt, sẽ kéo sang đánh cũng chưa là muộn. »

Vua Thanh vẫn nghe lời tâu của Nghị. Do đó, Vĩnh-Thanh với Nghị không hợp ý nhau, Thanh bèn cáo bệnh không đi.

Nghị tự một mình vâng chiếu đem quân bốn lộ Quảng-đông, Quảng-tây, Quí-châu, Vân-nam cùng ra cửa ải. Đại-quân chia làm hai đạo, một đạo đi đường Lạng-sơn do Nghị đốc-suất, một đạo nữa đi đường Tuyên-quang, do viên Tổng-binh đốc-suất, các đạo đều theo tiết-chế của Nghị. Trước khi trẩy đi, Nghị có họp các tướng sỹ ban ra tám điều quân-luật sau đây:

1•) Đại binh ra ải, cốt để dẹp giặc yên dân Đi qua các nơi, đội ngũ đều phải nghiêm-chỉnh, không được quấy nhiễu nhà người, cướp bóc chợ búa;

2•) Ngoài ải, toàn là đồi cao núi hiểm, đất đó rất dễ mai-phục, nên phải rẫy sạch khối đá, phát hết nứa rừng, để cho trông thấy quang-đãng, có thể vững lòng mà đi. Nếu gặp chỗ nào đất mới sốp lỏng thì phải để ý xem xét, cho khỏi mắc phải quỉ-kế của giặc;

3•) Đại-binh định đóng chỗ nào trước hãy xem xét địa-thế, tìm lấy những nơi dễ kiếm nước cỏ, không gần rừng cây, bốn mặt đào hào đắp lũy, sai các binh sĩ đêm ngày tuần-phòng, lại cho quân đi dò la ở ngoài mười dặm, không được ầm-ầm to tiếng, dễ bị kinh loạn;

4•) Người Nam đánh trận hay dùng sức voi. Lối đó nội-địa không quen, nên hễ gặp phải, ắt đều chạy trước để tránh. Nhưng không biết rằng: sức voi tuy khỏe, nó cũng là thân máu thịt, không thể địch lại hỏa-khí của ta. Nếu như thấy voi ra trận, xa thì bắn súng, gần thì dùng cung và đao, khiến nó bị đau mà chạy lật lại, dầy séo lẫn nhau, quân ta thừa-cơ tiến lên mà chém, quyết là phải thắng. Cần phải nói cho mọi người biết rõ như thế mới được.

5•) Quân Nam không có « sở-trường » gì khác. Họ chỉ dùng các « ống phun » làm thứ lợi-khí. Thứ lợi-khí đó gọi là « Hổ lửa » Trong khi hai quân giáp nhau, trước hết họ dùng vật ấy đốt cháy quần áo người ta, để cho người ta phải lui. Nhưng cái thuật ấy, cũng chỉ như thế mà thôi, so với súng-ống của ta, còn kém xa lắm. Hiện đã chế sẵn vài trăm « lá chắn » bằng da trâu sống, nếu gặp « ống phun » của người Nam phun lửa, quân ta một tay cầm lá chắn đỡ lửa, một tay cầm gươm chém bừa, chắc họ sẽ phải lướt ngā;

6•) Đại-binh đi đường, nếu gặp khe suối, giòng sông, những chỗ nước sâu, thì phải chặt lấy tre gỗ bắc làm cầu phao để binh-mã sang cho tiện. Chỗ nào sông hẹp nước nông, viên coi binh-biền phải dò đích-xác rồi cho quân lính theo hàng xâu cá mà đi. Lúc xuống nước bùi-dùi thuốc súng không được bạ đâu ném đấy, lỡ bị ướt thì hỏng;

7•) Rau củi của đại hinh dùng trong hàng ngày, đã có tiền quan cấp phát. Chỉ được trao đổi với người Nam bằng cách thuận tình, không được tự-tiện chặt lấy cây cối ở các làng xóm để sinh ra sự tranh-dành. Nếu tới chỗ nào chỉ cách rừng núi độ một hai dặm, cũng phải sai các biền-binh hộ-vệ cho kẻ kiếm củi, không được tự ý đi xa để gây ra những chuyện khác. Còn việc múc nước nấu cơm, viên coi biền-binh cần phải xét-nghiệm cẩn-thận. Hễ thấy đích là sạch-sẽ, không độc, mới cho múc uống;

8•) Quân lính bị thương, viên cai-quản cũng phải nghiệm xét đích-thật, làm giấy bẩm trình, cho đưa về dinh điều-trị, để tỏ sự hưu-tuất. Nếu có kẻ nào hư-xằng giả làm đau ốm, hòng được về nhà, khi đã tra ra, sẽ phải « chính-pháp » lập tức. Vả lại, lần này quân-sỹ, phải đi tới chỗ biên-ải xa-xôi, triều-đình đã có hưu-tuất tột-bậc, mỗi tên lính cấp một tên phu. Các viên cai quản cần phải hiểu-dụ cho lính với phu phải thương xót nhau, không được tự ý sai-khiến một cách tàn-ngược. Quân lính đi đường, đều phải mang lấy khí-giới, không được tự mình đi không, đồ đạc giao mặc phu dịch, khiến họ vác đội không nổi, giữa đường tìm cách đi trốn. Số phu quá nhiều, tra kiểm rất khó, có thể dinh trước lẩn vào dinh sau, kẻ nọ kẻ kia, không quen biết nhau dễ sinh lộn-xộn. Phải cấp cho mỗi tên phu một miếng thẻ bài đeo lưng. Trong thẻ viết rõ tên, họ hiệu dinh, cho tiện nhận xét phân-biệt.

Quân-luật trên-đây, biện-binh đều phải nghiêm-ngặt tuân theo. Kẻ nào làm trái, sẽ bị quân-pháp xử-trị không tha.

Nghị lại đưa sang nước ta một bài hịch nữa đại-ý nói rằng:

« Dấy nước đã diệt, nối dòng đã tuyệt, việc đáng làm chi kể man-hoang (!), vớt người bị chìm, cứu kẻ bị cháy, đừng-chẳng-được mới dùng binh cách. Nay nghĩ họ Lê nước An-Nam, vốn là cống-thần của Thiên-triều, ba trăm năm vật-sản tiến dâng, kính theo chức phận; mười lăm lộ đất phong chia-cắt, gồm có nước nhà. Thế mà khoảng năm Kiền-long, tù trưởng trong nước là bọn Nguyễn-Nhạc, Nguyễn-Huệ cất quân làm loạn, đánh úp La-thành, vua Lê trước vì lo-sợ mà phải qua đời, Tự-tôn là Lê Duy-Kỳ, đến nỗi siêu bạt ra ngoài. Bề tôi cũ là Nguyễn Huy-Túc đem mẹ và vợ Tự-tôn chạy sang nội-địa, khẩn-cấp xin cứu. Đã hỏi bọn Túc: Tự-tôn hiện nay ở vùng Kinh-bắc, Lạng-sơn, tôi dân vẫn nhớ chủ cũ. Nguyễn-Nhạc là quân mọi-rợ như giống chó dê, quen thói hung tợn của loài chồn sói, đến đâu cướp đấy, trăm họ oán đến xương tủy. Ôi! một tên dân ở biên-thùy, đùng-đùng nổi lên, phạm vào luân-thường, làm trái nghĩa-lý, đạo trời đã không thể tha; lại dám hoành-hành ở nơi nội-địa, tàn hại nhân dân, bạo ngược chúng-thứ, phép vua cũng cần phải đánh. Hiện đã đệ tâu và được đức Đại-hoàng-đế thương-xót họ Lê tan nát, không nỡ để cho châu Giao lầm than. Ngài đã sai quan Đốc-phủ đeo ấn Chinh Man Đại-tướng-quân, đem năm mươi vạn binh-mã thẳng tới La-thành, trừng-trị tội ác bọn Nhạc, không cho lũ chúng trốn thoát hình-phạt của trời. Nước Nam đời đời tôn-đội vua Lê, nhờ ơn quyến luyến nuôi nấng đã lâu, trí-năng còn chửa mất, cảm-khích bởi trong lòng, không thể tự mình bỏ mất thiên-lương của mình, đến nỗi quên vua theo giặc. Kẻ nào trước xướng tiếng nghĩa, tựa sức cứu giúp của Thiên-triều, họp tập đồng-chí, ra sức trừ giết quân thù, thì khi ải tía hát khúc khải-hoàn, màn soái tính sổ quân-công, sẽ được cắt đất chia phong, hưởng chung phúc-lộc với họ Lê, như Trịnh đại-gia ngày trước. Hịch này đưa tới, đâu đó đều phải hăng-hái, mài dũa đòng dáo, chống lại với kẻ thù nhà vua. Ai nấy một lòng giốc sức, thì mới có công, mới được lĩnh thưởng ở trong quân, hưởng phúc ở trong nước. Hãy cố gắng lên! »

Tướng của Tây sơn là Nguyễn Văn-Điếm và Phan Khải-Đức đóng giữ Lạng-sơn, thấy tờ hịch ấy đều rất lo sợ. Trong khoảng một ngày, quân lính trốn mất quá nửa. Khải-Đức bí-mật sai người đem thư gắn sáp đưa lên cửa ải xin hàng. Văn Điếm thấy mình cô-quân, thế không thể chống, vả lại là người Quảng-nam, nếu có hàng nữa, chưa chắc đã được bao dong, Điếm bèn thu hết binh-mã, luôn đêm rút về Kinh-bắc, cùng Lưu-thú ở đó là Nguyễn Văn-Hòa hợp sức giữ vững thành trấn, rồi sai kỵ-binh chạy thư về thành Thăng-long cáo-cấp.

Bắc-bình-vương sau khi ra Bắc, bắt Vũ Văn-Nhậm, đã từng một phen thay-đổi quan-quân, chỉnh-đốn hết các công-việc. Ngài giao cho Đại-tư-mã Ngô Văn-Sở, nội-hầu Phan Văn Lân, Chưởng-phủ Nguyễn Văn-Dụng, Đô-đốc Nguyễn Văn-Tuyết, Hộ-bộ-thị lang Trần Thuận-Ngôn, Lại-bộ-thị-lang Ngô Thì-Nhậm[1] cùng ở giữ thành Thăng-long. Trong khi sắp-sửa về Nam, ngài có đặt tiệc họp cả bọn đó và bảo:

— Sở và Lân vốn là nanh-vuốt của ta, Dụng và Ngôn thì là tâm-phúc của ta. Tuyết là cháu ta mà Nhậm thì vừa bề tôi lại vừa là khách của ta và lại là giòng văn-học Bắc-hà, hiểu biết việc đời nhiều lắm. Nay ta giao cho các ngươi cả mười một trấn trong hạt, những việc quân-quốc quan-hệ, cho phép tùy-tiện mà làm, nhưng phải họp nhau cùng bàn, chớ vì kẻ cũ người mới mà sinh ngăn-cách. Ai nấy đều phải đồng lòng hợp sức, cho xứng-đáng với sự mong-mỏi của ta Các ngươi phải gắng sức nhé!

Mọi người đứng dậy lạy tạ và xin vâng mệnh.

Thế rồi Bắc bình vương chọn ngày lên đường về Nam.

Sau đó, các nơi núi biển hễ có kẻ nào còn dám ngáng-trở, Sở chỉ sai viên tỳ-tướng đi đánh là dẹp được liền. Tại các phủ huyện hoặc có kẻ nào đem đơn đến kêu, Sở cũng tùy việc mà xử, không có việc nào ứ-đọng. Trong những ngày rỗi, Sở thường cưỡi ngựa đi rong các phố cho vui, và tự cho rằng cả cõi Bắc-hà không còn việc gì khó nữa. Một hôm, Sở họp các quan ăn tiệc ở nhà Hiệp-nghị, giữa tiệc, Sở bảo với Lân và Tuyết:

— Chúa-công đem một thành lớn giao phó cho ta, cũng như sai kẻ thợ may, cắt cái áo gấm mà chưa tin hẳn đã biết cầm kéo hay chưa. Các ông coi thử ra sao? Nếu có Tề-Thiên Đại-Thánh ở trên trời xuống, hay Diêm-vương ở dưới đất lên, chỉ vét một mẻ lưới là hết Huống-chi cái lũ tẹp-nhẹp, chẳng qua chỉ để người ta thử xem gươm có sắc không, chứ có làm gì?

Rồi Sở ngảnh lại bảo Ngô Thì-Nhậm:

— Quan Thị-lang thật giỏi về nghề văn-mặc, không biết về việc cung kiếm có quen hay không?

Nhậm đáp:

— Có văn thì có võ! Văn võ không phải hai đường. Nhưng mà cổ-nhân hành-binh, vẫn thường « tới việc mà lo ». Sao ngài lại cho việc binh là trò đùa mà coi thường như thế? Tôi nghe trong bọn người nước chạy sang bên Tàu, cũng có những kẻ muốn dắt họ sang mở mang bờ-cõi, gây ra binh-đao Ngài đã nhận sự ký-thác ở ngoài cửa khổn, e rằng không khỏi có phen vì lo mà bạc đầu Lúc ấy ngài sẽ nghĩ đến lời tôi.

Sở cười và nói:

— Khi ấy sẽ phải phiền ông làm một bài thơ để đuổi quân giặc. Nếu không đuổi được thì túi đao bao kiếm vẫn là phận-sự của kẻ võ-thần, can gì ông phải quá lo?

Chẳng bao lâu, thấy tin cáo ấp chạy về, Sở rất kinh-hoảng, tức thì cho đòi các quan văn võ nhà Lê vào dinh, bắt phải đem việc Sùng-nhượng-công coi nước làm một bức thư. Trong thư đứng tên Duy-Cẩn và nói dối rằng: hào-mục trong nước đã cùng tôn Cẩn làm chức Giám-quốc. Rồi Sở sai bọn văn-thần Nguyễn Quý-Nha, Trần Bá-Lãm, văn-thuộc Vũ Huy-Tấn và võ-thần Nguyễn Đình-Khoản, Lê Duy-Chử, võ-thuộc Nguyễn Đăng-Đàn đem bức thư ấy đưa lên cửa ải để xin hoãn-binh. Một mặt, Sở họp Lân để bàn về cách chống giữ. Chưởng-phủ Nguyễn Văn Dụng nói:

— Tôi nghe hồi cuối nhà Trần, người Minh sang lấn nước Nam. Hoàng Phúc, Trương-Phụ, Mộc-Thạnh, Liễu Thăng đều là những tướng hung-tợn của Tàu, vua Lê Thái-tổ khởi-nghĩa ở vùng Lam-sơn, thế và sức đều không thể địch lại họ. Nhưng mà hành-binh quỉ-quyệt, không kiêng những sự quyền-mưu, Thái-tổ chỉ khéo mai-phục, rồi lại thừa hư đánh úp quân giặc. Nhờ vậy, ngài chỉ có số ít quân mà đánh được kẻ nhiều quân, vây Vương-Thông ở bến Đông-bộ, giết Liễu-Thăng ở núi Mã yên, chiến-công rực-rỡ, nghìn đời ngợi khen. Nay người nhà Thanh ở xa đến đây, trèo đèo vượt suối, cực-kỳ khó-khăn, ta nên dùng cách « dĩ dật đãi lao », các chỗ yếu-hạt, đều cho quân đi mai-phục, chờ khi họ đến thì đánh. Như thế lo gì không được?

Thì-Nhậm nói:

— Không được! ông chỉ biết một chưa biết hai. Việc trong thiên-hạ, tình tuy giống nhau mà thế khác nhau, thì sự được hỏng cũng không giống nhau. Xưa kia khi mà nước ta thuộc về Tàu, người Minh làm bừa những sự tàn-ngược, cả nước ai cũng muốn đuổi họ đi. Cho nên vua Lê Thái-tổ chỉ gọi một tiếng, xa gần đều theo, hào-kiệt trong nước như mây kéo đến. Mỗi lúc đánh nhau với giặc, người nước chỉ sợ quân mình bất-lợi. Nghe tin thắng trận ai cũng vui mừng. Lòng người như thế, cho nên hễ có phục-binh núp ở chỗ nào, người ta đều phải giấu-giếm thật kín, bên giặc không biết. Sở dĩ thắng trận đều bởi tại thế. Ngày nay, những người bề tôi nhà Lê đi trốn, đâu đâu cũng có, nghe tin quân Thanh sang cứu, họ đều nghển cổ mà mong. Sỹ dân cả nước tranh nhau chạy đi đón chúng. Quân ta mai-phục ở đâu, địa-thế hiểm-trở hay bình-dị, số quân nhiều hay ít, giặc nếu chưa biết, họ đã bảo trước với chúng. Nhân kế của mình, làm kế của chúng, chúng sẽ vây kín bốn mặt mà bắt. Quân-cơ của mình đã bị tiết-lộ, tự-nhiên mình phải mất sự tiện-nghi, ấy là mình tự hãm mình vào chỗ chết vậy, còn hòng đánh úp được ai? Binh-pháp nói rằng: « Khéo mai-phục thế nào cũng được, lầm mai-phục thế nào cũng thua ». Được thua khác nhau, là tại đời xưa và đời này không giống nhau vậy.

Sở hỏi:

— Thế thì nên làm ra sao?

Nhậm đáp:

— Trong phép dụng-binh, có đánh với giữ. Bây giờ quân Thanh sang đây, tin-tức rất lớn. Người nước, những kẻ đi làm nội-ứng cho giặc, phần nhiều lại còn nói phao cho thanh-thế của chúng to thêm, để làm kinh-động lòng người. Quân ta hễ có việc gì, kẻ sai-phái vừa ra khỏi thành liền bị bắt giết. Rồi thì những người Bắc-hà đã bị làm lính, chỉ chực có dịp là trốn. Đem hạng quân ấy đi mà đánh nhau, không khác nào sua đàn dê đi đánh con cọp, không thua sao được? Còn muốn đóng cửa thành cố giữ, thì lòng người đã không vững rồi, cái lo bên trong chắc sẽ xẩy ra, dẫu đến Tôn, Ngô sống lại, cũng phải bó tay không thể tính được kế gì. Như vậy lại không khác gì đem con trạch mà bỏ vào rỏ cua vậy. Xin nghĩ cho kỹ mà xem: đánh đã chẳng được, giữ cũng chẳng vững, đánh và giữ đều không phải là thiện sách cả. Bất-đắc-dĩ thì có cách này: sơm sớm truyền cho thủy quân chở các thuyền lương, thuận gió giương buồm, ra thẳng cửa biển, đến núi Biện-sơn mà đóng, và cho bộ quân chỉnh-đốn khí-giới, mở cờ gióng trống lui về giữ núi Tam-điệp. Mặ thủy mặt bộ thông nhau, giữ lấy chỗ hiểm cho vững thế thủ, rồi cho người chạy giấy về bẩm Chúa công. Thử coi quân Thanh đến thành khu xử với việc nhà Lê thế nào, vua Chiêu-thống sau khi phục-quốc, quân mưn quốc-kế xếp-đặt ra sao, đợi Chúa-công ra sẽ đánh, cũng chưa là muộn.

Sở nói:

— Chúa-công về Nam, đem cả thành này giao phó cho ta Giặc đến thì phải quyết-chiến sống thác với thành, thì trên không thẹn là kẻ bề tôi giữ đất, dưới không phụ với cái chức-trách cầm quân. Nếu thấy bóng giặc đã trốn, bỏ thành cho giặc, chẳng những đắc tội với Chúa-công, mà người Bắc còn coi ta ra cái gì nữa!

Nhậm nói:

— Tướng giỏi đời xưa, phải lượng thế giặc mà đánh, phải nắm phần thắng mới đánh. Theo thế lập mưu, giống như đánh cờ vậy, trước có nhịn người một nước, sau sẽ hơn người một nước. Rồi đem nước sau làm nước trước mới là cao cờ. Nay ta toàn quân rút lui, không bị mất một mũi tên, cho nó ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, cũng như ngọc bích của nước Tấn đem cho nước Ngu, rồi lại vẫn về nước Tấn, có mất gì đâu? Nếu có vì thế mà mắc lỗi, tôi dám bộc-bạch rõ với Chúa-công, chắc là ngài cũng lượng xét, xin ông đừng nghi ngại gì.

Sở nghe lời Nhậm tức thì mật sai các viên trấn-thủ Kinh-bắc, Thái-nguyên, Lạng-sơn nói phao là phải họp quân để đắp lũy đất ở sông Như-nguyệt rồi cùng cho quân cất lẻn rút về, một mặt tư cho các viên trấn-thủ Sơn-tây Hải-dương, hẹn ngày phải đem binh-lính đến họp ở thành Thăng-long, một mặt truyền trấn Sơn-nam sắp sửa thuyền bè đợi thủy-quân đến sẽ cùng trốn đi.

Vừa đúng năm ngày, các đạo kéo đến đông đủ. Sở bèn mở cuộc duyệt-binh rất lớn ở bãi sông, rồi Sở hạ lệnh bộ quân phải sắp lương khô để đợi sai phái, thuộc tướng Đặng Văn-Chân phải đốc thủy-quân đi trước xuống Đông, Cắt đặt vừa xong, thì trời đã tối, vừa thấy bọn Nguyễn Quí-Nha và Nguyễn Đình-Khoan ở trên cửa ải chạy về nói rằng: Lúc lên đến ải, bị quân canh ải của Tàu ngăn không cho sang. Hiện nay quân Thanh đã qua Nam-quan, quân bộ, quân kỵ của đội tiên-phong đã xuống đóng đồn ở huyện Phượng-nhỡn. Sở liền họp hết các tướng bàn việc lui quân. Phan Văn-Lân nói:

— Quân không cứ nhiều, nước không cứ lớn. Nay ta làm tướng cầm quân ở ngoài, giặc đến, chưa từng tiếp chiến, mới nghe thấy tiếng dọa hão đã tự lui nhụt, thì còn dùng tướng làm gì! Tôi xin tự đem một nghìn linh-binh tiến thẳng lên sông Như-nguyệt, chọi nhau với nó một trận, xem nó có khí-thế gì? Người Nam với người Tàu ai khỏe hơn ai? Và cho nó biết mình đây không nhát. Đó cũng là cách « chặn trước thì đè được người ».

Sở cho là phải.

Lân bèn đốc quân qua sông sang Bắc. Canh ba, tới bờ phía nam sông Nguyệt-đức, vừa nghe quân Tôn-Sỹ Nghị đã đóng ở núi Ba tầng. Lúc ấy, tiết trời cực rá-rét, Lân dồn quân sang sông khiêu chiến. Tướng sỹ sợ oai của Lân, đều phải liều xông hơi lạnh, lội bừa xuống nước. Ra đến giữa sông nhiều người cóng quá không thể sang được, đều bị chết đuối, kẻ nào vào được tới bờ, cũng bị quân Thanh giết chết. Lân liệu không thể giao-chiến, tức thì vẫy quân chạy lùi. Dư đảng tan-vỡ, chạy vào các làng lại bị dân-quê săn-bắt đem nộp quân Thanh. Lân phải một mình một ngựa chạy về Thăng-long. Sở rất lo sợ, bèn giấu kín việc bại trận không cho ai biết rồi truyền lệnh cho các đạo quân nghiêm-chỉnh đội ngũ trẩy đi. Đúng trưa, đi qua Phúc (?) xuyên, bấy giờ người ta mới biết là Sở lui binh. Hôm sau tới huyện Yên-mô, Sở sai chia quân đóng đồn từ các khu rừng quanh núi Tam-điệp thẳng đến bờ bể, mặt thủy mặt bộ liên-lạc với nhau, cho vững.

Trước đó vua Chiêu-thống đương lẩn lút ở Kinh-bắc Lạng sơn, nghe tin Tôn-Sỹ-Nghị đưa hịch sang ta, hẹn ngày kéo quân đến ải, ngài liền bí-mật sai đi gọi nghĩa-sĩ các nơi. Các quan văn võ được tin cũng đều khuyên-bảo hào-kiệt các hạt họp tập hương-binh chờ đợi.

Lúc đó Hoàng-thượng có sai Lê Duy-Đản đem một bức thư lên ải, đợi khi Sỹ-Nghị qua đó thì vào yết-kiến để kể tình-hình trong nước với Nghị và nói cho Nghị biết rằng: Tự-quân vừa bị cảm-mạo không thể đi đường, xin ở trấn-thành Lạng-sơn chờ đón. Đến khi nghe tin quân Tây rút lui, ngài liền truyền các toán quân cần vương đều phải đến nhà hành-tại, rồi ngài kén lấy một nghìn nhiêu-nam xung vào đội quân túc-vệ, còn bao nhiêu nữa, giao cho các tướng lập thành đội ngũ, ai đem bộ-thuộc của nấy đi giữ các trấn:

Trần Quang-Châu lĩnh trấn Kinh-bắc. Nguyễn Đạo lĩnh trấn Hải-dương, Hoàng Tố-Nghĩa lĩnh trấn Sơn-nam. Hoàng Phùng-Tứ lĩnh trấn Sơn-tây. Mọi người vâng mệnh đều tới lỵ-sở, riêng Trần Quang-Châu thì vẫn ở lại hành-doanh bảo-hộ xa giá.

Châu xin ngự giá dời về Kinh-bắc, sửa lại thành lũy nhà cửa để đợi quân Thanh.

Hoàng thượng nghe lời, Ngài lại sai bọn Bình-chương Phạm Đình-Dư Tham-tri Vũ-Chinh đem thiếp thỉnh-an lên Hòa-lạc đưa cho Sỹ Nghị và nói rõ rằng: Hiện nay phái quân chia ngả cùng đi kinh-lược tất cả bốn trấn ở ngoài quốc-thành, lùng bắt bọn giặc nấp náu các nơi. Xin đệ một số thổ-sản nhỏ mọn là mười con trâu, một trăm vò rượu, làm đồ khao quân, mong được thu nhận.

Rồi ngài sức các kỳ-lão và các xã dân mấy huyện ven đường đều phải ra đầu địa-hạt nghênh-tiếp quân Thanh.

Khi quân Sỹ-Nghị sang Nam, đi đường rất là dễ-dàng. Đến núi Tam-tằng, nghị sai đóng đồn tại đó. Đêm ấy tuy có bị Phan Văn-Lân kéo lên định đánh, nhưng vì tiết trời rá rét, quân Lân chưa đánh đã tan. Rồi Ngô Văn-Sở cũng phải thu quân tự lui, trên đường quân Thanh đi, không còn ai dám ngăn-trở. Bởi vậy, Nghị không lo-ngại điều gì mà còn có vẻ kiêu-căng, mới thấy Vũ-Chính, Nghị liền hỏi:

— Trước khi đại-binh ra ải đã có đưa hịch truyền bảo. Quân giặc sợ hãi ôm đầu chạy trốn, Tưởng rằng thần dân bên ấy ai cũng cố tự phấn-trấn, để chờ oai trời, giết kẻ giặc nước, bất-nhật sẽ được thành công. Sao lại một mực nhút-nhát, khiến cho quân giặc đi được hết sạch? Bây giờ đại-quân đã đến địa-giới nước mình, cũng lại tuyệt nhiên không chịu đem sức báo đáp. Như thế, còn gọi là « nước có người » được chăng?

Chinh nói:

— Nước tôi không thể mưu lấy công-việc, mới phải đi gõ cửa ải cầu-cứu. Nếu sức chúng tôi đè nổi quân giặc, thì đâu dám phiền đại-binh? Nay « được » ngài đem chỗ đó quở-trách, tôi còn biết nói làm sao! Vậy xin kể về tình-hình của giặc: Nguyên-Nhạc sinh-trưởng ở vùng Tây-sơn, cậy sẵn sào-huyệt; Nguyễn-Huệ là tay lão-luyện về việc hàng-trận, trong tay cầm một đội quân rất mạnh, từ khi kéo quân về Nam đến giờ, anh em họ vẫn đánh lẫn nhau. Nhạc ở Tây-sơn, Huệ giữ Thuận-hóa, ai nấy xưng hùng, xưng bá, kẻ tự làm đế, kẻ tự làm vương... Còn ở quốc-thành chúng tôi, thì đồ-đảng của họ là bọn Ngô Văn-Sở, Phan Văn-Lân nghe thiên-binh lại, chưa biết hư thật thế nào, nên hãy thu quân tạm lánh. Nghe như bọn này hiện đương đóng quân chặn núi Tam-điệp, ngăn hẳn từ đất Trường-an về Nam. Một tên thiện-tỳ cũng còn hung-tợn như thế, huống chi kẻ đại-tù-trưởng của chúng. Nếu không dụng binh một phen thật lớn, làm sao bắt sống được hắn? Nước tôi sau khi táng-vong, Tướng ít quân yếu, chưa dễ làm việc. Nhờ cạy Thượng-hiến uy-linh lừng-lẫy, khiến kẻ tù-trưởng của quân Mọi khiếp-sợ mà phải nộp mình, đó là lòng mong-mỏi của nước tôi.

Nghị cười mà rằng:

— Nước ngươi vì bị tàn-ngược đã lâu, mất cả thần-khí, nên động một tý thì đem hùm sói dọa nhau, tự ta coi ra, nó chỉ như hạng chó dê, cứ sai một người dùng thừng buộc cổ lôi về, chắc không khó gì. Đợi khi ta đến La-thành, nhổ bãi nước bọt xoa tay là làm xong việc. Ngươi hãy thử ngắm mà xem.

Lúc Nghị tới trấn Kinh-bắc, Hoàng-thượng tự đem quần-thần đến chào. Nghị nói yên-ủi:

— Quí-Tự nhiều năm phải chịu nạn lớn của nước, nhờ được đức Đại-hoàng-đế có lòng thương-xót, sai mạt-đốc này đem quân hộ-tống tôn-từ, lệnh-quyến về nước. Chuyến này sang đây giúp cuộc kinh-lý, quyết bắt cho hết đảng giặc, rồi mới chỉnh-đốn qui mô, làm kế dài lâu. Bao giờ các việc đều muôn nghìn lần ổn-thỏa thì mới ban sư. Quí-Tự không phải lo về việc nước nữa!

Hoàng-thượng nói:

— Đội ơn đức Đại-hoàng-đế lượng cả như trời, nói không thể xiết, lại được Thượng-hiến hạ mình tới đây, khiến cho hạ-bang được thấy ánh sáng của áo cừu, đai ngọc, thỏa lòng trông ngóng bóng cả, như thể trông sao Bắc-đẩu và núi Thái-sơn, mối tình mừng-rỡ cảm-khích kể không thể hết.

Rồi ngài mời Nghị vào dinh nghỉ tạm. Nghị nói:

— Đây cách quốc-thành cũng không xa nữa, cần phải đến ngay, không nên chậm-chạp.

Tức-thì Nghị sai nổ mấy tiếng súng thật lớn, và truyền quân-sỹ nghiêm-chỉnh đội-ngũ trẩy đi.

Gần tối thì đến bắc ngạn Nhị-hà. Hoàng-thượng xin sang sông trước để vào trong thành, bắt người sắp sửa giường màn ở nhà Kính-thiên, rồi ra đón Nghị vào đó yên nghỉ. Nghị không ưng và nói:

— Chỗ đó không phải là chốn hành-doanh của đại-tướng, đối với việc quân sẽ có nhiều điều bất-tiện.

Rồi Nghị truyền lệnh đóng quân giữa hai bãi cát giáp với hai bờ Nhị-hà và lại bắc một dịp cầu phao cho tiện đi lại.

Bữa ấy nhằm ngày 11 tháng 11 năm Mậu-thân.

Hôm sau, Hoàng-thượng tự đến dinh Nghị chờ đợi. Nghị sai ngài về bày-biện nghi-trượng rất long-trọng ở điện Kính-thiên, truyền cho các quan vào hầu, làm lễ thụ phong Sắp đặt đâu đấy, Hoàng-thượng đội mũ miện, mặc áo cổn quì ở giữa sân. Nghị đem liêu thuộc tới đó, tuyên-đọc tờ sắc của vua nhà Thanh phong cho Hoàng-thượng làm An-Nam quốc-vương. Xong lễ thụ-phong, Hoàng-thượng theo lệ thảo biểu tạ ơn, xa trông cửa khuyết vái lạy, rồi ngài đưa tờ biểu đó cho Nghị, nhờ Nghị sai người đệ về Bắc kinh. Nghị nhận lời.

Tuy là Hoàng-thượng đã được phong vương, nhưng mà giấy má đưa đi các nơi vẫn viết niên-hiệu Kiền-long. Vì còn có Nghị ở đấy nên không dám dùng niên-hiệu Chiêu thống. Ngày ngày tan buổi coi trầu, ngài lại tự đến dinh Nghị, chờ nghe công việc quân-quốc.

Lần nào cũng vậy. Hoàng-thượng cưỡi ngựa đi trước, Lê-Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính theo hầu chỉ có chừng vài chục người. Người trong kinh thành, không ai biết là Hoàng-thượng...

Nghị cũng ngông nghênh tự tôn, Hoàng-thượng đến dinh, có khi Nghị không buồn tiếp, chỉ cho người đứng trên linh-các truyền rằng: « Nay không có việc quân quốc, hãy về cung nghỉ ».

Đối với Hoàng-thượng, lễ-ý thù-tiếp của Nghị rất giản-bạc. Và Nghị lại còn dong-túng quân sĩ làm nhiều việc trái phép nữa.

Trước đó, người Tàu kiều-ngụ ở phường Hà-khẩu trong đô thành, và phố Cơ-xá, cửa trấn Kinh-bắc, cùng phố Hiến, cửa trấn Sơn-nam, tất cả đến hơn một vạn, lúc ấy họ đều theo Nghị, hoặc là lập riêng một trại. Bọn đó biết tiếng ta, hiểu tục ta, vì vậy, họ mới thừa thế kiếm cách vu-hãm những người hiền-lành, ức-hiếp những nhà giàu-có, thậm chí giữa đường giữa chợ, họ cũng cướp giật tiền bạc, bắt hiếp đàn bà con gái, không kiêng sợ gì. Nhân-dân ở quanh kinh-kỳ thường thường khổ-sở về họ.

Hoàng-thượng biết thế, nhưng trót đã mới hắn sang, chỉ sợ mất lòng với hắn, nên không dám nói. Nghị cũng thừa biết những tình trạng ấy, song vẫn mặc cho bọn kia làm gì thì làm, không hề ngăn cấm chi hết.

Từ khi Hoàng thượng trở về kinh thành, các quan văn võ siêu-bạt lần lượt kéo đến lạy mừng. Ngài bèn ban thưởng tất cả những người có công theo ngài đi trốn hoặc là giúp đỡ các việc. Phạm Đình-Dư làm Lại-bộ thượng-thư kiêm Bình-chương-sự, Nguyễn Huy-Túc làm Đồng-bình-chương-sự, Lê Duy-Đản, Vũ Chỉnh làm Tham-tri chính-sự, Nguyễn Đình Giản làm Binh bộ thượng-thư kiêm Tri-khu-mật viện sự, Nguyễn Duy Hợp, Chu Doãn-Lệ làm Đồng-tri Khu-mật-viện-sự Trần Danh Án làm Phó-đô ngự sử, Lê Huy-Tấn, Phạm Quý-Thích làm Hộ-bộ độ-tri, Lê Doãn-Hợp, Ngô Vi-Quý làm Đồng-tri Binh-chính, Lê-Quýnh làm Quân-trung úy-đốc, cho tước Quận-công, lĩnh đạo cần-vương theo Tôn Sỹ-Nghị giúp đỡ việc binh.

Ngoài ra, bao nhiêu quan văn, quan võ, ai về nha cũ của nấy làm việc như xưa.

Viên phó-hiến ở trấn Kinh-Bắc là Ngô Tưởng Đảo lấy cớ già yếu không chịu nhận chức, dâng sớ nói rằng:

« Vận trời gặp lúc gian-chuân, không ngờ lại được thấy bóng « thiên-nhật », thật là cái phúc vô cùng của xã-tắc. Thần trộm nghĩ rằng: « Việc binh quí ở mau chóng », nếu như cơ-hội có thể làm được, thì cần gì phải tựa vào sức của quân ngoài, mỗi việc mỗi dềnh-dàng hàng tuần?

« Nay quân cần-vương các lộ ai không hết lòng hết sức mong giúp nhà vua ít nhiều? Trong khi quân giặc mới lui, đem ngay đại-quân đuổi theo, « sét dữ không kịp bịt tai », kẻ « cuồng giảo » kia chắc không còn đủ thì giờ mà tính. Hai xứ Thanh, Nghệ nghe tin chắc sẽ hưởng-ứng. Nguyễn-Huệ còn mắc ở phía Nam Hoành-sơn, Sở và Lân trơ-vơ ở đó, hình-thế ngăn cách không thể thông nhau, chẳng qua mười ngày, có thế bị bắt tất cả. Vây cánh đã cắt được rồi, sào-huyệt của chúng có thể lần lượt mà dẫy phẳng hết. Thần tưởng cái cơ trung-hưng chính là lúc này, không thể bỏ qua ».

Sớ ấy đưa vào, Hoàng-thượng lại giao cho bọn Nguyễn Đình-Giản cùng xem, mọi người đều cho là phải. Riêng có Lê-Quýnh chống lại và nói:

— Sức mình không địch được nó mới phải cầu-cứu. Hành-Doanh Đốc-bộ hiện đóng ở đây, nếu kéo quân đi lại không bẩm trước mà cứ tự tiện, việc xong thì thôi, vạn-nhất mà bị vấp-ngã, sợ rằng ngài sẽ trách mình làm lỡ quân-cơ, rồi bỏ mặc mình, rút quân về ải, ngồi xem mình làm ra sao. Như thế việc lớn sẽ bị hỏng mất. Thần xin đến trước trình-bầy, xin ngài chỉ bảo phương-lược, để ngài cộng sự với mình. Đó là được cả hai đường.

Hoàng-thượng cho thế là phải. Quýnh bèn đi vào dinh Nghị nói về việc đó. Nghị đáp:

— Việc gì mà phải lật-đật như thế?... Chẳng qua cũng như lấy của trong túi, lấy sớm được sớm, lấy muộn thì được muộn. Bây giờ đã sắp hết năm, đại quân đi xa, cần phải nghỉ ngơi, không nên đánh vội. « Giặc gầy thì ta béo », để nó tự đến nộp thịt. Nhưng « nước ấy » đã xin như thế thì nên tính tự đô-thành về nam chừng sáu chục dặm, chia quân đóng ba đồn, đó cũng là cách phòng xa. Chờ đến sang năm tiến quân mà bắt... chưa muộn.

Rồi Nghị sai đắp ba khu lũy đất: một khu ở bắc ngạn sông Thanh-quyết trong huyện Thanh-liêm, một khu ở làng Nhật-tảo trong huyện Duy-tiên và một khu nữa ở làng Ngọc-hồi trong huyện Thanh-trì, chia quân đóng giữ.

Từ đó Hoàng-thượng chỉ tựa vào Nghị, các quan cũng không ai dám nói đến chuyện dấy quân phục thù. Quýnh thì suốt ngày say mê tửu sắc, ân oán dù bằng cái tơ cái tóc cũng đều đền báo tất cả. Một hôm, Quýnh nói với vua:

— Trong khi « ngự giá gặp bụi », hoàng-thân triều-sỹ cũng có nhiều người lấy sự tai vạ làm may, đua nhau nói hết quốc-tình với giặc, cam tâm làm giống ưng khuyển của nó, để cầu phú quí. Trái lý, trái nghĩa, không gì hơn thế. Thần xin trị tội bọn đó, để thiên-hạ biết danh-phận cương-thường không thể rối loạn. Đó cũng là việc cần gấp không nên lần lữa bỏ qua, khiến cho kẻ ác người thiện không khác gì nhau.

Hoàng-thượng khen phải. Ngài bèn giao xuống đình-nghị. Mọi người đến nói năm ngoái Trần Công-Sán đi sứ Tây-sơn vì không chịu hàng, bị giặc giết hại. Thật là đáng khen, đáng thương, xin cho quan triều về tế tại nhà, nhân thể thăm hỏi vợ con Sán. Hoàng-thượng nghe lời, bèn tự thảo bài văn-tế. Trong bài có câu: « Tiết lớn đủ nghiêng non lật bể, cùng sương thu ác lửa trang-nghiêm; lòng son riêng yêu nước trung vua, gặp đốt rắn dễ rai càng tỏ ». Đấy là chữ của chính tay Hoàng-thượng viết ra.

Xong rồi, mới bàn đến tội những kẻ phản nước theo giặc.

Lúc vua đi trốn, trấn-thủ Tuyên-quang là Phạm Như-Toại bắt sống hoàng-đệ Duy-Tụ đem nộp cho giặc, và Phò-mã úy Nguyễn-Bành dẫn đường cho quân giặc đi đuổi theo ngài, đều là tội nặng, theo luật phải chém; Ngô Thì-Nhậm, Phan Huy-Ích đem thân theo giặc, lĩnh nhận chức tước của giặc, đều bị truất làm thứ dân, về quê gánh vác sai dịch; Nguyễn-Hoàn, Phan Lê-Phiên quì gối ở « sận giặc »; Trương Đăng-Quĩ đi theo ngự-giá giữa đường lại bỏ, đều bị biếm làm chức Tư-huấn; Nguyễn Quí-Nha, Trần Bá-Lãm, Vũ Huy-Tấu, viết thư hộ giặc nói việc Sùng-nhượng-công giám-quốc để xin hoãn binh, đều bị hạ ngục; Nguyễn Bá-Khoan vì là võ-biền, già nua, thật thà không biết gì, được miễn tội.

Lê-Quýnh nghe nói khi Khoan ở Cao-bằng về, có chở hàng xe vàng bạc, tức thì sai người đòi lấy hai chục lạng vàng. Quýnh có nói rõ với vua chuyện ấy. Hoàng-thượng cười nói:

— Sẻ chỗ nhiều bù vào chỗ ít, ngươi muốn làm sao thì làm, không hề chi.

Ngoài ra lại còn ba người hoàng-thúc thông nhau với giặc, gả con cho giặc, Hoàng-thượng mật sai bắt đem chặt chân, vất xuống cái giếng trong cung.

Giữa lúc ấy Thái-hậu ở trấn Cao-bằng vừa về, thấy vua chỉ thích báo ân báo oán, làm việc trái với pháp-độ, Thái hậu giận lắm và nói:

— Ta phải trèo đèo vượt suối khổ-sở, mới xin được quân sang đây,..! Phỏng chừng nhà nước chịu được mấy chuyến ơn thù phá-hoại thế nữa! Nếu cứ làm mãi như thế, thì trị sao nổi thiên-hạ? Gái già này lại đến làm đưa đi trốn mà thôi,..!

Rồi ngài gào-khóc, không chịu vào cung. Hoàng-thượng mật sai Nguyễn Huy-Túc khuyên giải Thái-hậu, Túc vào nói với Thái-hậu:

— ... Thánh-từ sẵn lòng hiếu-sinh như thể trời đất, cố-nhiên phải lấy sự đó làm lạ. Nhưng thưởng phạt là cái phép lớn của nước nhà, cho nên nhà Chu phải giết họ Quản họ Sái, nước Lỗ phải đánh thuốc độc Thúc-Nha. Cổ-nhân không hề vì tình họ mạc, cố-cựu mà bỏ luật-pháp. Mong rằng lượng trên khoan-dong, để cho Hoàng-thượng được làm việc nước. Như thế thật là vạn-phúc!

Thái-hậu nể Túc có công theo mình đi trốn, không muốn trái lời của Túc. Tuy người gắng gượng nghe theo, thật ra, trong bụng không cho ý Túc là phải. Người bèn vào cung.

Bấy giờ đã nửa tháng chạp, sắp sửa đến tết nguyên đán. Lễ quan tâu xin đến ngày 25 hạp ấn, các lễ miếu xã triều-đình đều chiểu lệ thường mà làm. Duy có đại-binh Thiên-triều ở xa lại đây thì về phần cung-đốn xin theo như lệ thết sứ phong vương mà gấp thêm lên hai lần. Các quan và các quân lính đều được nghỉ ngơi mươi ngày để cùng vui đón tiết xuân.

  1. Trên đã nói Bắc-bình-vương đem Nhậm về Nam, không hiểu vì sao ở đây lại nói để Nhậm ở Bắc.