Giai nhơn kỳ ngộ/Hồi thứ hai
Hồi thứ hai
Chàng nghe mọi nỗi nguồn căn,
Nhẹ lau giọt lụy, nặng oằn lá gan,
Xiết bao vắn thở dài than.
Người đời sao có đa gian thế mà!
U-Lan từ tạ thưa qua:
« Xin chàng thứ lỗi kiêu-ngoa cho cùng!
Trong khi xuân sắc đương nồng,
Gió trong mát mẻ đẹp lòng biết bao!
Xui nên ra cảnh tiêu tao,
Cho chàng buồn bã tội hầu tại đây.
Trộm nghe quí quốc bấy nay,
Đổi thay tục cũ, sửa bầy chánh tân.
Học đòi Âu Mỹ dần dần,
Bỏ hoa hái trái cân phân rạch ròi.
Văn minh ngày một sáng soi,
Nước nhà ngày một tới nơi phú cường,
Một vầng soi góc Phò-tang,
Bồng-lai ba đảo vững vàng biển đông.
Trên ngôi thiên-tử có lòng,
Cho người chánh-đảng đặng vòng tự-do.
Dưới dân đảng nhỏ phe to,
Lăm đền nợ nước, toan lo giãi giầu.
Nước nhà bền đá vững âu,
Triều-tiên đưa sứ, Lưu-cầu thêm dân.
Á-đông gặp hội phong vân,
Tai trâu chắc đã mười phần trong tay.
Sao cho tháo trói cổi dây,
Sao cho các nước khôn gây oán thù.
Sao cho mất vía cường-Âu,
Từ sau đừng dám đè đầu cõi đông.
Dầu ai can thiệp việc trong,
Ra tay chống cự cho xong mọi đường.
Làm cho bốn bể danh dương,
Mở giàm ức triệu, nắm cương toàn cầu.
Tưởng chàng học khắp Á Âu,
Xưa nay tầng trải quả cầu hơn thua.
Sa-trường chưa trải tranh đua,
Sở-tù chưa nếm cay chua mùi đời.
Nhưng khi trong lúc thảnh thơi,
Đem thân để thử cuộc đời mà suy.
Thiếp nay nhà phá nước suy,
Nhọc nhằn kiếp trẻ, lưu li cõi người.
Non Hàng muôn dặm xa khơi,
Ngày đêm luống những đoái hoài tử tang.
Mà nay khôn lựa tấc gang,
Lắm đều cay đắng cho chàng xót xa.
Nay chàng cắp sách đường xa,
Giao du lắm kẻ tài hoa nước này.
Xem chàng tuổi trẻ tài hay,
Công danh cũng chắc trong tay đã rồi.
Đạo trời nghĩ cũng thương thôi!
Nên, hư, họa, phước, sứcn gười mà chi?
Dầu cho lỡ vận thất thì,
Cũng an sở ngộ việc gì mà lo?
Xem chàng nét mặt buồn xo,
Hay là tại thiếp làm cho ai hoài? »
Trong khi an ủi một hai,
Tình kia nỗi nọ rạch ròi đôi bên.
Ngồi gần lại có Hồng-liên,
Lân la nàng cũng tới bên vỗ về.
Chàng càng giọt ngọc ủ ê,
Càng lau càng chảy dầm dề chứa chan.
Trong khi dào dã ngổn ngang,
Tình cờ một giọt thấm tràn áo the.
Ngại ngùng nửa thẹn nửa e,
Cầm khăn chàng mới lăm le gần nàng.
Nàng càng cười nói vội vàng,
Lụy chàng nhỏ áo ngàn vàng khôn mua.
Giải tiên rơi tới bông thừa,
Chút lòng cảm tạ đã vừa vào đâu.
Lòng tôi ngần ngại bấy lâu,
Cớ chi đến đỗi chàng sầu lắm thay?
Trộm nghe thói nước xưa nay,
Thương người sa sút ghét tay hung tàn.
Lắm người trượng nghĩa giúp nàn,
Dầu cho trôi máu phơi gan cũng là.
Thói chi con nít đàn bà,
Trượng phu đâu có nồng nà thế ư.
Hay là máu nóng khôn trừ,
Nghĩa cao, tiết cả, phát từ tình chung?
Vì thương bọn thiếp long đong,
Vậy nên đến nỗi trăm dòng ngổn ngang.
Thiếp xin muôn tạ ơn chàng,
Tấm tình mang xuống suối vàng còn ghi.
Vả chăng tạo hóa biết suy,
Trong vòng họa phước có khi gặp thì.
Rủi mà chẳng gặp thời-kỳ,
Chết vì đạo nghĩa, sá gì ghét thương.
Gẫm trong sống chết nhiều đường,
Dẫu bằng sống đục cũng phường cỏ cây.
Sao cho dân nước sum vầy,
Một lần trôi máu phơi thây mới đành.
Thiếp nghe hai chữ « công danh »
Giầu lòng giả giối muốn thành sao đang?
Cỏ kia phải đốt vì hương,
Chim kia phải bắt vì phường lông xanh.
Làm người đứng giữa cao xanh,
Dầu rằng lan ngọc tan tành cũng vui.
Còn như sống dập thác vùi,
Dẫu cho muôn tuổi lại mùi mẽ chi.
Vậy nên những đấng tiên tri,
Lắm cơn hoạn-nạn, lắm khi khốn-cùng.
Lời hằng đạo cả trung-dung,
Một đời luống những long đong cõi người.
Nê-sơn là thánh nối trời,
Giới trong Trần Thái sợ ngoài Tống Khuông.
Tích thiêng đồn khắp bốn phương,
Một thân chuộc tội treo gương muôn đời.
Gia-tô cũng chúa cứu người,
Chết trên thập tự đủ mười oan khiên.
Tẩu-ngu thích-thiết bực hiền,
Một lòng ngay thẳng trăm thiên nhiệm mầu.
Một đời ngậm tủi đeo sầu,
Làm cho đến đỗi mắc bầu tì-sương.
Nghĩ thôi càng ngán ngao đường,
Tài cao phải chịu trăm đường đắng cay!
Cây cao thì phải gió lay,
Người cao thì phải kẻ đày người chê »
Xưa nay giấu úp ê hề,
Mà lòng chí-sĩ vẫn thề non sông.
Muốn qua thì phải lội sông,
Muốn cho thỏa chí phải xông vào đời.
Kể chi những lũ rong rài,
Túi cơm giá áo chơi bời no say.
Xiết bao mặt dạn mày dày,
Trong vòng thế lợi khoanh tay cúi đầu.
Mặc ai chỉ ngựa làm trâu,
Vâng vâng giạ giạ biết đâu ngỡ ngàng.
Quyền cao là ngọc là vàng,
Những người thật thế là phường dép mo.
Ngày đêm luống những so đo,
Thân danh được mất đói no một mình.
Ra thì xe ngựa linh đình,
Vào thì hầu thiếp khoe mình rằng sang.
Biết đâu đến chuyện hành tàng,
Cuộc đời còn biết thương tang là gì! »
Một thiên khích liệt lâm li,
Khiến người ngồi đó cũng ghê cho tài.
Nghĩ tình Tán-sĩ nực cười,
Thấy nàng yểu điệu ngỡ người trăng hoa.
Hay đâu rất nỗi tài hoa,
Càng nhìn, càng nghĩ, càng tha thiết lòng.
Thưa rằng: « trong buổi lạ lùng,
Nghe lời sấm sét động dung anh hùng.
Ngu hèn còn biết động lòng,
Huống chi tôi cũng là dòng thơ-hương
Dám đâu gan ruột tầm thường,
Bầm non bầm nước học phường tiểu-nhi.
Thôi nàng chớ ngại ngần chi,
Tôi đây cũng kẻ lưu ly sống thừa.
Ghe phen đạn gió tên mưa,
Ghe phen sống thác ngăn ngừa trùng vi.
Bây giờ nhà nước suy vi,
Ngậm cay nuốt đắng khác chi hai người.
Bơ vơ góc biển chân trời,
Tình cờ lại gặp những người tha-hương.
Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Chuyện xưa tích cũ hai đường như nhau.
Nỗi mình nghĩ đến mà đau,
Trăm sầu ngàn tủi khôn lau giọt tình.
Làm cho lụy nhỏ áo mình,
Xin ai hỡi thứ chút tình cho chăng? »
Nghe lời nàng mới hỏi rằng:
« Gẫm lời chàng nói rõ ràng vậy sao?
Việc chàng cặn kẽ thế nào?
Xin chàng kể hết trước sau cho mà. »
Thở than chàng mới nói ra,
« Người trong cung kiếm con nhà đỉnh chung.
Từ khi Âu-Mỹ sang đông,
Kể năm tính đã độ chừng hai mươi.
Lòng trung dạ nghĩa lắm người,
Thề lòng thảo tặc xướng bài cần vương.
Những trang chí khí cang cường,
Tức quân tham lạm ghét phường ngẩn ngơ.
Sông trong khôn nỗi đợi chờ,
Thề đem một thác giã từ non sông.
Thù riêng lắm kẻ dã công,
Khêu gan ức triệu giục lòng công khanh.
Nào ai biết thế hoàn dinh,
Nào ai biết nó biết mình là đâu.
Lăm le xua đuổi người Âu,
Toan đem chưn chấu chống nhầu cỗ xa.
Gần xa quán sứ đường xe,
Đầy đàng máu chảy bốn bề lửa giăng.
Vỗ gươm khoe sức hung hăng,
Tỉnh-y nhào trước An-đằng ngả sau.
Tuyệt giao là kẻ mưu sâu,
Thông thương là kẻ cầm đầu bán vua.
Làm cho các nước xúm ùa,
Phá ngang bờ cản, đạp đùa giạu ngăn.
Hung hăng hiếp đáp vô ngần,
Vừng Tang bóng xế non Thần sóng cao.
Tuy rằng vận nước lao đao,
Gẫm ra cho kỹ xôn xao tại mình.
Đau lâu tốn thuốc đã đành,
Hiếm vì một nỗi quốc-tình xấu xa.
Những người kiến thức cao xa,
Chuyện xưa nghĩ đến nước nhà mà đau.
Chúa tôi gặp lúc lao đao,
Nhờ ơn tiên-đế chực chầu kinh-sư.
Dâng thơ bày tỏ thị phi,
Răn bề « bạo động » giải bề phân nhương.
Lạ chi những thói hùng cường,
Cậy bề tính lợi ép đường giao thông.
Người Anh thật gớm ghê lòng,
Nếu không sứ Mỹ trong vòng chủ trương.
Thời ta đến nỗi dở dang,
Chẳng phe Ấn-độ cũng phường An-nam!!!
Đương khi trong giận ngoài căm,
Triều-đình tích tệ ba trăm năm trời.
Trăm đều chánh-trị rã rời,
Binh hèn, của hết, cuộc đời hôm mai.
Lòng nào còn dám đoái hoài,
Chúa tôi quyết ý định bài quyên-sinh.
Sao cho trên thuận dưới bình,
Việc đời giốc gánh thân mình quản bao.
Lắm người hữu dõng vô mưu,
Phơi gan đứng giữa Hồng-câu triều-đình.
Rồi ra sự-nghiệp tan tành,
Mỉa mai trăm miệng ra tình chán chê.
Biển dâu một cuộc ê hề,
Gió lay cây lớn mây che râu rồng.
Tướng quân Khánh-hí anh hùng,
Mối quyền mạc-phủ dốc lòng sửa sang.
Xưa nay chứng bịnh cao hoang,
Còn ai chửa đặng cho toàn nữa sao.
Chánh quyền người mới xin giao,
Chúa tôi liền cũng lao đao ra ngoài.
Vậy mà những miệng rong rài,
Rằng phò Mạc-phủ, rằng bài tân-vương.
Khóc than còn có ai thương,
Cùng đường trốn lánh giụt đường kêu ca.
Binh triều thẳng tới nước ta,
Khói che ngút núi, mau sa dầm đàng.
Dân ta ra dạ ngỡ ngàng,
Quân vua sao có bạo tàn thế ư?
Hay là những đảng hùng cừ,
Mượn quyền ấu-chủ thù tư lăm đều.
Vậy nên cả nước dưới trên,
Thề liều một trận chết bên cô-thành.
Bốn bề ngui ngút khói binh,
Gươm rơi trước trận giáo quanh bên hào.
Đầu rơi máu chảy biết bao,
Tấm lòng địch-khái dễ nao anh hùng.
Bấy giờ có lũ trẻ trung,
Dựng cờ bạch-hổ rặt dòng danh-gia.
Cô-quân một đội kéo ra,
Ngăn ngừa ba mặt xông pha bốn bề.
Thương ôi! trứng mỏng núi đè!
Trăm phần ước đặng sống về một hai.
Kéo nhau lên cụm núi còi,
Bó xương rịt máu tạm ngồi nghỉ ngơi.
Bỗng đâu khói lửa ngút trời,
Đạn bay rợp đất, thành rơi bốn tường.
Đau lòng cuộc thế tang thương.
Xấp tay hai lạy trông phương khuyết-đình.
Rằng tôi chút phận bồng-bình,
Trong vòng tên đạn liều mình quản bao.
Rủ nhau liền cắm lấy giao,
Một lần tự-vẩn ngán ngao lạ dường.
Trượng-phu một giấc sa-trường,
Bó thây da ngựa là thường xưa nay.
Thảm vì một nỗi chua cay,
Tai nghe mắt thấy lòng khuây sao đành.
Lắm trang cân-quốc chi anh,
Đau lòng non nước cũng đành máu trôi.
Bây giờ nhắc lại cuộc đời,
Mơ màng bóng bọt lụy rơi dầm dề ».
Hồng-liên nghe nói gớm ghê:
Động lòng nàng lại ủ ê hỏi chàng:
« Trong khi tên đạn ngang tàng,
Nhà chàng may khỏi vạ tràn ấy chăng? »
Chàng càng mặt héo mày nhăn,
Gan dàu bảy lá ruột quăn chín trìu.
Thưa rằng: « lúc ấy ban chiều,
Quân nhà thất trận binh kiêu vây thành.
Một nhà quyết chí quyên-sinh,
Mẹ già dắt trẻ lánh mình núi sâu.
Anh cả bị trận Việt-châu,
Anh hai cũng phải Dã-châu bỏ mình.
Anh ba cầm giữ mối binh,
Cha già gắng gượng liều mình Quách-môn.
Chú tôi mộ lính tập đồn,
Binh thua rồi cũng thân chôn sa-trường.
Một trời đạn gió tên sương,
Trận mưa ngui ngút bóng dương lờ mờ,
Tiếng quân reo dậy bốn bờ,
Súng rầm rĩ đất, khói mờ mịt mây.
Tôi còn tuổi trẻ thơ ngây,
Mũi tên quyết cũng ra tay chống kình.
Trong khi từ giã gia-đình,
Mẹ già nạt dặn rằng: « mình tướng-môn.
Sao cho đừng thẹn tổ-tôn,
Đầu rơi trước trận, thây chôn ngoài thành. »
Vâng lời vội vã cất mình,
Chị em bà cháu giọt tình chơi vơi.
Thương ôi! đau đớn cuộc đời!
Trăm năm ơn nghĩa một lời đấy thôi.
Người nhà hương lửa hẳn hoi,
Trước thần vái hết mỗi lời gần xa.
Nước non đã đến thế mà,
Ví bằng sống đục chẳng thà thác trong.
Trước là trả nợ non sông,
Sau là cho biết sĩ phong triều-đình.
Thương vì một nỗi chúa mình,
Lòng trung mà lại mắc danh phản-thần.
Nghĩ thôi cuộc thế ngán trân,
Bọt xao mặt nước, mây vần thanh-không.
Chạnh tình em trẻ đau lòng,
Lúc vừa bảy tuổi mẹ bồng trên tay;
Mấy lời mẹ dặn đắng cay,
Đợi con dưới đất vui vầy anh cha.
Bây giờ tan tác một nhà,
Còn ai hương khói ông bà nữa nao?
Thương ôi! một ngọn hỏa hào,
Đưa người máu mủ cười vào cửu-nguyên!
Gặp cơn vận nước ngửa nghiêng,
Kể ra còn lắm thuyền quyên anh hùng:
Người thì vào ngọn lửa hồng,
Người thì cắt tóc vị chồng cầu kinh.
Người thì tức tối trẫm mình,
Người thì bỏ mạng trên nhành cây cao.
Một lần máu chảy ngán ngao,
Đau lòng chủ-tướng truyền rao mấy lời:
« Người đời được mấy lăm hơi,
Chết không thác uổng một đời cũng oan.
Chi bằng nuôi chút hơi tàn,
Ngày sau trả nợ giang-san cũng vừa,
Còn như hay dở thiếu thừa,
Bao giờ nhắm mắt xin chừa về sau. »
Rạch ròi mọi nỗi cạn sâu,
Một thành ngậm tủi ra đầu cửa viên.
Chúa tôi lui lại kinh-thiềng,
Mấy trăm tướng sĩ lưu biên một lần.
Đọa đày đủ kiếp phong-trần,
Lắm yêu mặt ngựa, lắm thần đầu trâu.
Người thì biển bắc giãi giầu,
Ngày đêm gió thảm mưa sầu bao nhiêu.
Người thì đói khát ngả xiêu,
Hái rau chân núi với rêu đầu gành.
Sá chi một kiếp phù-sanh,
Cắn răng nhấm đủ trăm vành tả tơi.
Dành thân dốc trả nợ đời,
Phơi thây bảy thước tạ người chín sông.
Bây giờ vận nước long đong,
Người ngoài lắm kẻ nghênh ngông để mình.
Thanh thì cậy lớn xàng xình,
Gớm lòng Nga Đức, bực tình Pháp Anh.
Kiếng ta rượu đỏ lông xanh,
Mà trong lẫn lộn rõ rành thuốc mê.
Người ta lắm kẻ say mê,
Trước hàm hùm rắn lăm le gởi mình.
Nghĩ thôi thói nó rất kinh,
Đầu mồm nói ngọt trong mình dao găm.
Hổ lang còn kém thói tham,
Nửa phần châu Á mắc giàm thằng Nga.
Anh thì Ấn-độ tớ nhà,
Anam cũng bị Lang-sa dỗ dành.
Thừa ra người Thổ người Thanh,
Cây khô lá héo mấy nhành phất phơ.
Thương ôi! cõi Á bây giờ!
Kình nghê dậy biển bốn bờ sóng xao.
Hùm beo đói khát lao nhao,
Dòm rình ngoài cửa xiết bao vội vàng.
Người mình lắm nỗi ngỡ-ngàng,
Tự-do kiếm lối tìm đàng chưa ra.
Lời ngu lắm kẻ kiêu-ngoa,
(văn bản không rõ)im người uốn vạy hóa ra quá chiều
Phép hay thói tốt phá liều,
(văn bản không rõ)ng công cũng muốn trăm điều đổi thay.
Nhiều người ruột dối miệng ngay,
(văn bản không rõ)vời Âu Mỹ chạy quay một đàng.
Bán buôn bỏ hết nghiệp thường,
Khua môi múa miệng lạc đàng tự-do.
Nghênh-ngang nói lớn ăn to,
Phe kia đảng nọ ra trò háo danh.
Kể đâu đến miệng rấp ranh,
(văn bản không rõ)t hơi sủa bóng tập tành đã quen,
Thói người càng xấu càng hèn,
(văn bản không rõ)m bàn việc nước tối chèn cửa quan.
Lôi bừa kéo ách là sang,
(văn bản không rõ)ói người đến thế, nói bàn vào đâu!
Trường danh nẻo lợi vập đầu,
(văn bản không rõ)còn thói hiểm mưu sâu phỉnh phờ.
Đàng ngang nẻo tắt mập mờ,
(văn bản không rõ)ng mai mỉa miệng, càng ngơ ngẩn lòng.
Để cho những lũ ruồi mòng,
Thừa cơ múa trí diết lòng người ta.
Xui nên thói nước sút sa,
Thuốc chi chữa đặng bệnh tà lâu năm?
Bạc tiền hễ thấy thì tham,
(văn bản không rõ)n ai biết chút động tâm nước nhà!
Lắm người chặt ngón xẻ da,
Trốn cho khỏi lính ấy là chước hay.
Ông cha thượng võ xưa nay,
Bỗng không mấy chốc mây bay khói tàn!
Rủ nhau chen chóc vô vàn,
Cắp kèn đem thổi cửa quan om sòm.
Ra vào đút nhót âm thầm,
Say mê cờ bạc, dề dầm phấn son.
Phố phường lắm ả gái non,
Buôn hình bán dạng quên còn xấu xa.
Thẹn thuồng tục nước thói nhà,
Kẻ trai tức giận, người già tím gan.
Làm ăn lắm nỗi gian nan,
Mà trong xâu thuế đa đoan nặng nề.
Triều-đình quyền trọng gớm-ghê,
Cửa tiền cửa hậu bốn bề dễ chui,
Những quân chạy ngược chạy xuôi,
Máu tham ai cũng đánh mùi kiếm ăn,
Thương ôi! máu mủ của dân,
Lấy chi nuôi đủ những thân trâu bò,
Dân nghèo đói rách ốm xo,
Mồ hôi nước mắt măn mo cùng đường.
Bệnh nghèo mắc chứng cao hoang,
Rủ nhau nói khoét quên đường ngày sau.
Còn ai nghĩ cạn nghĩ sâu,
Nước dù đã mất nhà đâu lại còn?
Người ta đành mất miếng ngon,
Bán buôn cũng bị kẻ đùn người xô.
Trong nhà mười thước tự-do,
Chi bằng một tấc dành cho quốc-quyền.
Các ông nếu giữ dạ riêng,
Đường xưa dấu cũ ngửa nghiêng có ngày.
Sửa sang chước cả xin bày,
Dưới trên một bụng tao mầy bỏ đi,
Tiêu càn phí chạ làm chi?
Những quân tham nhũng bớt đi một vài.
Lòng ngay khắp cả trong ngoài,
Ai ai cũng gánh một vai nước nhà.
Sao cho dòng giống xuê xoa,
Sao cho người biết chơi xa nước ngoài.
Của tiền mượn vốn người ngoài,
Dẹp bề trắp điếu toan bài bán buôn.
Thợ thuyền trồng trọt luôn luôn,
Chở ra các nước ta buôn lấy lời.
Hỏa xa chỗ vắn chỗ dài,
Làm cho trong nước ai ai bằng lòng.
Uốn lâu cây cứng cũng cong,
Làm lâu vận bỹ cũng hòng thái lai.
Vậy mà cả nước ai ai,
Chỉ lo trước mắt chơi bời nỡ nao!
Rượu trà cờ bạc lao nhao,
Ngựa xe võng lọng khoe giàu nỗi chi?
Quên công vì bởi hờn ti,
Dùng người vơ vẩn cũng vì mặt quen,
Nghĩ người nước Mỹ mà khen,
Phơi gan trải dạ đua chen nước nhà.
Trông người lại ngắm vào ta,
Một trời một vực gẫm ra thẹn thuồng!
Lòng tôi như dại như cuồng,
Ngày đêm luống những rầu buồn đấy thôi.
Phải chăng ai biết đạo trời,
Vậy nên đến đỗi lòng tôi mơ màng ».
Nói rồi kẻ thở người than,
Vừng ô gác núi trăng tàn treo cây.
Khói đêm ngui ngút như mây,
Một giây ánh sáng soi ngay vào tường.
U-Lan mở cửa vội vàng,
Rằng: « phong cảnh ấy may chàng tới đây!
Cảnh màu tạo-hóa khéo xây!
Hoa thơm gió mát trông cây ngoài thềm.
Vừa chầu đánh đuốc chơi đêm,
Nhìn nhau khóc lóc có thêm chi mà?
Phải toan kiếm chước phôi pha,
Rủ nhau ta sẽ kẻ ca người đàn ».
Nói rồi quay lại lấy đàn,
Luôn cây đờn nhỏ trao nàng Hồng Liên.
Chàng rằng: « phấn chí giải phiền,
Ca thi ái-quốc một thiên mới là ».
Nàng rằng: « chàng hỡi xin ca »,
Vâng lời chàng mới ngâm nga mấy hồi.
Ca rằng:
1. — Nước Đại-Pháp vì dân rực rỡ.
Dựng cơ điều ta gỡ cho ta.
Nhà tả-tơi mẹ réo con la.
Thôi! khóc lóc kêu ca đà hết chỗ.
Triều-đình dữ tợn ba đời hổ,
Tướng-sĩ lao nhao mấy đám ô.
Biết ngày nào cho đặng ngợi chữ ca-cù?
Gớm lũ kiến loài sâu chi quá ghét!
Đấng trượng-phu một trường oanh liệt:
Rút gươm ra đôi mắt liếc người thù.
Thề nhau hai chữ « đồng cừu ».
2. — Thói hung hăng nay đà vấy vá.
Hèn càng hèn khuấy khỏa biết bao nhiêu.
Cõi hoang-giao chó sủa quân reo;
Vườn ruộng nát thành xiêu chợ bỏ.
Cảnh-vật tiêu-điều gai mắt ngó,
Quan-gia dìu dặt nối tay qua.
Họa hoạn nầy lai láng khắp gần xa,
Tội ác ấy muốn tha đà khôn xiết.
Đấng trượng-phu một trường oanh-liệt:
Rút gươm ra đôi mắt liếc người thù.
Thề nhau hai chữ « đồng cừu ».
3. — Việc xa xí trong cung khôn xiết kể.
Thói hung hăng còn nể gì ai.
Chà! khe tham biển dục láng lai,
Nếu lỗ chuột đút voi còn chửa hết.
Ta kính vua như vầng nhật nguyệt,
Vua đãi ta như việc ngựa trâu.
Loài người ai cũng đỏ máu đen đầu,
Vòng roi vọt dễ nỡ nào cay nghiệt.
Đấng trượng-phu một trường oanh-liệt:
Rút gươm ra đôi mắt liếc người thù.
Thề nhau hai chữ « đồng-cừu ».
4. — Chánh tự-chủ dân ta dốc quyết.
Chùm ruột gan xin kết cùng nhau.
Cổi trói dây còn đợi lúc nào?
Hỡi gắng sức anh hùng hào kiệt.
Loạn lạc lòng người ai cũng ghét,
Dối lìa thói tục khuấy cho nhau.
Gươm tự-do sẵn mấy lúc chùi lau,
Trí thuật dễ hầu ai húng hiếp.
Đấng trượng-phu một trường oanh-liệt:
Rút gươm ra đôi mắt liếc người thù.
Thề nhau hai chữ « Đồng-cừu »;
Sa-trường một dốc, sương thu ngàn đời.
— Dọng êm phất phới ngoài môi,
Dọng sầu mấy tiếng ngậm ngùi trong răng.
Xui người ruột tức gan hăng.
Hai nàng theo nhịp tay quăng nhộn nhàng.
Thoạt nghe như khóc như than,
Thình lình lại đổi khúc đàn Tiệm-ly.
Trong khi hứng thú lâm ly,
U-Lan lại xướng tân-thi một bài.
Lặng nghe ngẫm nghĩ êm tai,
Chàng liền họa lại một bài nối theo.
Thi rằng:
Đêm nay vui vẻ biết bao nhiêu!
Kẻ hát người tranh hứng dặt dìu.
Mấy khúc xui nên lòng vấn vít.
Hai bên còn lắm nỗi liu điu.
Bụi trần mỏng mảnh dường bay bổng.
Đường thế quanh co hỡi bước liều.
Cái kiếp phù sanh là mấy chốc?
Vì ai cay đắng luống nâng niu!
Thi rồi ngậm ngợi dật dìu,
Ngang tàng chí trẻ mĩ miều tình trai.
U-Lan liền bắt lấy tay,
Thôi đàn nàng lại múa ngay một hồi.
Tay bưng chén rượu sập sùi,
Chúc chàng muôn tuổi, thêm vui bớt sầu
Chàng rằng: « đêm tốt cảnh mầu,
Vui lòng nở giạ dễ đâu đủ đều.
Đêm nay hưởng thú dật dìu.
Gẫm trong ý khí dễ tiêu ái hoài. »
Nàng rằng: « mật trải gan soi,
Mỗi người ta xướng một bài tân ca ».
Đương còn nghĩ ngợi ngâm nga,
Vỗ cầm nàng đã xướng ra một bài.
Thi rằng:
Trăng sáng mây tan vựng cảnh chiều,
Gió xuân phơ phất nước liu riu.
Khách quầy một tiệc mùi thêm nực,
Đàn gảy năm dây dạ dễ xiêu,
Tinh vệ nghìn năm hồn khó dứt;
Đỗ-quyên muôn kiếp máu chưa tiêu.
Rồng nằm đáy biển còn chờ đợi;
Gặp hội mây mưa thẳng chín tiêu.
Đàn ca một khúc vừa rồi,
Hồng-liên nàng cũng một bài nối theo.
Thi rằng:
Nhóm bạn đêm thanh cạn chén vàng.
Gió xuân đưa nhạn khói mơ màng.
Đầy thềm bông rụng lòng thơ thẩn,
Chấp mắt xuân qua bóng lẹ làng.
Tay yếu dáo dài khôn cậy sức,
Thù sâu biển cạn luống căm gan!
Năm dây tơ nhuộm ngàn cân máu,
Một khúc hòa ta tiếng thở than.
Một hồi gió cuốn mưa reo,
Gõ bình chàng cũng nối theo một bài.
Thi rằng:
Chiếc đò ngư-phủ lạc Đào-nguyên.
Thơm ngát màu lan thắm vẻ liên.
Trăm giọt lụy sa cây trúc khách;
Chín trìu ruột đứt tiếng cầm tiên.
Biển dâu kiếp trước thêm đau đớn;
Non nước ngày nào đặng vẽ viên?
Gặp gỡ duyên trời âu cũng lạ,
Rượu ngon một chén giải trăm phiền.
Hồng-Liên đứng dậy cầm chai,
Rót hai chén rượu, rằng: « bài chàng hay!
Tìnhsâu lấp lố một vài,
Mừng chàng thiếp bởi dâng hai chén quỳnh.
Chàng liền cặn kẽ đinh ninh,
Mỉn cười nàng mới tỏ tình gần xa.
Rằng: « trên bức liễu kia là,
Huệ lan thơm nực tìm ra phụng hoàng.
Thiếp thì lạt lẽo mơ màng,
Còn ai ngó tới ngỡ ngàng biết bao ».
Chàng càng đón trước rào sau,
Dã ngơ nàng mới gảy mau tiếng cầm.
Cao ca một khúc hùng-trầm,
Của Nga học-sĩ lúc lâm trường hình.
Thi rằng:
Vắng vẻ đêm thanh giọng tiếng vàng.
Trăng soi cửa sổ bóng mơ màng.
Phải trái còn chờ khi nhắm mắt,
Tự-do một giấc nực cười khan.
Điệu thanh mai mỉa tiếng oanh,
Điệu sầu thấp thoảng non Hoành nhạn kêu.
Cung thương mấy giọng tao tiêu,
Nửa phần đau ruột, nửa điều xót gan.
Giọng nàng còn hỡi miên man,
Thoắt nghe cũng khiến U-Lan lạnh mình.
Rằng: « thôi trong lúc hứng tình,
Ca chi giọng ấy bực mình lắm thay! »
Nói rồi nàng lại trỏ tay,
Ngang chừng phủ-Bý chỉ ngay cho chàng.
Khong khong một cánh cung Loan,
Bóng chiều khói tỏa mát man muôn nhà.
Một trời trăng sáng gió hòa,
Quanh sân mấy cụm la đà nhành sương.
Cảnh thu mai mỉa lạ dường!
Động lòng chàng vịnh một chương thuật hoài.
Thi rằng:
Nước non quanh quất một tầng lầu.
Trong có người Đông học Sở-tù.
Tiếng dế đêm khuya kêu giắng giỏi.
Trăng soi phủ-Bí mấy nhà thu.
Ca rồi kể lể gót đầu,
Ấy thi năm ngoái trung thu thuật hoài.
Giang-thôn một cõi choi voi,
Vui trong thơ kiếm cách ngoài trần-ai.
Đương khi gió mát sương phai,
Một vầng trăng bạc sáng soi đôi bờ.
Một mình quán khách bơ vơ,
Tình cờ tức cảnh bây giờ còn ghi.
Cùng nhau họa lại xướng đi,
Cảnh đêm đã vắng hứng thi chưa tàn.
Vui vầy một tiệc bôi bàn,
Hứng tình chàng lại lựa đàn phong tranh.
U-Lan dậy múa đành rành,
Hồng-Liên lại choán phần mình ngọc tiêu.
Trong khi nàng múa dập dìu,
Nhìn xem đủ vẻ yêu kiều biết bao.
Sóng tình trăm lớp dều dào,
Mày hồng tai tía má đào thêm tươi.
Hồng-Liên mủm mỉm nói cười,
Xem trong tình điệu đủ mười sóng thu.
U-Lan sửa áo xóc bâu,
Ba người dìu dắt rủ nhau dạo vườn.
Áo ngoài lác đác hơi sương,
Trăm hoa nghiêng ngửa mùi hương nức người.
Bốn bề tơ liễu phất phơi,
Trăng treo quạnh quẽ, gió rơi nhẹ nhàng.
Một màu trời nước mênh mang,
Sông Tương, núi Sở, ngổn ngang mối tình.
Chàng càng cảm nỗi cao xanh,
Sụt sùi lại nghĩ hư dinh cõi đời.
Lẽ mầu diệu giải mấy lời:
« Nhơn gian nghe đặng nhạc trời mấy khi.
Mênh mông vũ trụ ai bì,
Muôn vàn tinh-tú thiên-ky khôn lường.
Vả nghe ánh sáng xuyên ngang,
Một giờ đi đặng muôn vàn dặm tây.
Cứ theo mực ấy mà suy,
Sáng sao đến đất cũng chầy mấy năm.
Tám ngàn lai láng biển nam,
Đất trời cũng đã trải năm muôn vàn.
Cầm trong mạng số thế-gian,
Đem so vũ-trụ giọt tràn thấm bao?
Đem thân so với dày cao,
Số chi mà tính đặng nào nữa đây?
Muốn cho cặn kẽ cao dày,
Khiến người luống những như say như cuồng!
Huống chi cuộc thế tấc vuông,
Trong con mắt Tạo ra tuồng gì đâu!
Vậy mà các nước Á Âu,
Đua nhau giành lợi ngọn râu nực cười.
Bàn huyền nói tịch mấy người,
Càng mầu càng nhiệm xui đời nhấp nhem.
Nghĩ ra cho kỹ mà xem:
Người xưa đánh đuốc chơi đêm phải mà... »
U-Lan nàng mới thưa qua,
Vui buồn âu cũng người ta thường-tình.
Hôm nay vui vẻ đã trinh,
Lại e đến đổi động tình xót xa.
Bây giờ đã quá canh ba,
Xin chàng hởi trở lại nhà nghỉ đây. »
Dắt chàng vào chốn lầu tây,
Rằng: « đây là chỗ mộng hay của chàng.
Ngày mai ta sẽ nói bàn. »
Nói rồi múm mỉn vội vàng bước ra.
Chàng vào buồng ngủ xem qua:
Màn treo kín tháp, trăng lòa vào song.
Mơ màng một giấc hãi hùng,
Thình lình trông thấy quân dung rộn ràng.
Bốn bề trống giục sấm vang,
Hai bên xáp trận nhộn nhàng mũi tên.
Mịt mờ khói phủ bốn bên,
Cờ bay xấp xới dưới trên lợp đàng.
Ngựa xe qua lại nhộn nhàng,
Ngút trời khói súng rực đường ánh gươm.
Tiếng người tiếng súng om sòm,
Đôi bên đua sức hườm hườm như sôi.
Thình lình, một tiếng thương ôi!
Một bên thất trận lăn vùi chạy quay.
Địch quân thừa thế theo ngay,
Đùng đùng kéo tới thẳng vây kinh-thành.
Tiếng hằm tiếng hét xung quanh,
Tả tơi bóng xí, tan tành dấu xe.
Đạn bay tứ phía ve ve.
Mình liền bị đạn dầm dề máu rơi.
Mê man tối đất tối trời,
Hớp hoi còn nối chút hơi một mình.
Gái đâu chạy tới thình lình,
Tay cầm thập-tự xông mình đạn tên.
Vội vàng đỡ xuống bồng lên,
Kêu rằng: « thiếp hỡi xin yên lòng chàng.
Việc chi sợ sệt vội vàng? »
Bỗng không quân giặc đã tan đi rồi.
Giật mình mở mắt ra coi,
U-Lan nàng đã chực ngồi một bên.
Thơ mơ vừa nghĩ vừa nhìn,
Giây lâu mới biết là mình chiêm-bao.
Mồ hôi chảy tháo dều dào,
Trong lòng hồi hộp cất đầu ngó ra.
Vừng đông bóng đã chói lòa,
Vội vàng sửa áo bước ra chuyện trò.
Thình lình một tiếng kêu to.
Chàng đừng bỏ thiếp măn mo mối sầu! »
Thất kinh chàng mới quay đầu,
(văn bản không rõ) con anh-võ nuôi lâu trong lồng.
Tình cờ lại gặp nàng Hồng,
Nhìn nhau mủn mỉn ra lòng mỉa mai.
Cười rằng: « nghĩ cũng khen ai.
Dạy con anh-võ lắm nhời nhởn nhơ ».
U-Lan giả dáng làm ngơ,
Mặt hồng tai tía u ơ thẹn thuồng.
Sóng thu lấm liếc màu gương,
Mởn mang hoa sớm đeo sương ngại ngần.
Hồng-Liên liền lấy bình ngân,
Rót trà bưng lại tân mân nói cười:
« Trà này bóng bọt tốt tươi,
Mừng cho hai gã tốt đôi gọi là ».
Chàng rằng: « mộng dữ hôm qua,
Bữa nay điềm tốt biết là nhằm đâu.
Nghĩ cho vạn sự đáo đầu,
Như ông Tái-mã biết đâu mà lường ».
U-Lan nghe nói thảm thương,
Làm thinh chàng cũng ra dường ngửa nghiêng.
Thưa rằng: « lạc lối Đào-nguyên,
Tình cờ lại gặp Lạc-xuyên gái thần.
Vườn đào nhóm họp mấy lần,
Phơi gan trải mật bụi trần sạch không.
Thế-gian mấy kẻ biết lòng,
Xưa nay lắm nỗi não nùng vì ai!
Lạ lùng bèo nước gặp người,
Trong cơn lưu lạc bằng mười chị em.
Dầu mà đường thế không êm.
Chưn trời góc biển mánh tem khôn nhìn.
Cõi đời sống chết khôn tin,
Mà lòng vàng đá giữ gìn không phai.
Dám đâu phụ bạc như ai:
Đương khi thề thốt hình hài sá bao.
Đến khi tiền bạc róc bao,
Phùng mang trợn mắt ngọt ngào nữa đâu.
Thờ vua vặp mặt cúi đầu,
Gặp cơn hoạn-nạn toan hầu bán cha.
May mà gặp thuở thái-hòa,
Ăn sâu ăn mọt biết là bao nhiêu.
Lòng ngay người mới kính yêu,
Những quân bạc bẽo trăm điều ai tin.
Xin ai trân trọng muôn nghìn,
Lòng đây còn hỡi giữ gìn như xưa ».
U-Lan mặt héo như dưa,
Cất lời nàng mới chường thưa vội vàng:
« Hôm qua thiếp có nghe chàng,
Thấy điềm ác mộng sợ đàng về sau ».
Sụt sùi họng nghẹn mặt dầu,
Lời vàng chưa dứt lụy châu trăm dòng.
Gượng cười lại hỏi nàng Hồng:
« Lòng ta buồn bã ngại ngùng bởi đâu? »
Hồng-Liên về vỗ giờ lâu,
Cười rằng: « tôi nhớ người Âu nói thường:
« Lòng mê vì bởi quá thương,
Bây giờ chị hỡi xin lường cạn sâu. »
Chàng nghe chẳng biết vào đâu,
U-Lan nàng cũng cúi đầu làm thinh.
Hồng-Liên thỏ thẻ thưa trình:
« Bữa nay chàng đến cũng tình thâm-giao.
Hai bên ý hiệp tâm đầu,
Cũng vì hai chữ phong lưu cuộc đời.
Gẫm trong bàn luận mấy lời,
Vào trong hiền thánh, ra ngoài trung trinh.
Thi ca mấy khúc chung tình,
So vào Lý Đỗ tao thanh đủ mười,
Thuyền-quyên quân-tử những người.
Vui mà không đắm có lời dạy xưa.
Xin chàng chớ nệ nắng mưa,
Năng qua năng lại đừng sưa mối tình ».
Chàng rằng: « chút phận lênh đênh,
Quá lời khen ngợi, ra tình xót xa.
Lòng người còn tưởng đến ta,
Mông lời khuyên nhủ sẵn là lòng đây.
U-Lan vắn vó khôn khuây,
Tay cầm hoa cúc gài ngay áo chàng.
Rằng: « dầu hoa nọ khô khan,
Chàng đừng bỏ thiếp bụi than một mình ».
Chàng liền cười nói rập rình,
Rằng: « nàng thiệt kẻ chung-tình yêu hoa.
Những hoa biết nói xuê xoa,
Ngày sau chẳng biết của ta của người ».
U-Lan múm mỉn miệng cười.
Mắt đưa Tán-Sĩ dặm dài xa xa.
Phạm-khanh là khách Si-noa,
Tức đời ghét tục lánh xa giang-hồ.
Dặm khơi cũng khách đơn cô,
Cùng chàng qua lại hẹn hò bấy lâu.
Chuyện nàng đã rõ gót đầu,
Khi đi chàng dặn đem châu đón người.
Bên sông chàng bước tới nơi,
Bắt tay chào hỏi vội dời thuyền ra,
Hai nàng đứng cách xa xa,
Kêu rằng: « trân trọng đó mà chàng ôi! »
Chàng liền cất mão trả lời,
Rằng: tôi cũng chắc kìa mai đó mà ».
Thuyền đi một khoảng xa xa,
Chàng còn ngó lại năm ba bốn lần.
Hai nàng còn đứng bực sân,
Tay huơ khăn trắng mấy lần yếm âu.
Phạm-khanh trở mái dòng sâu,
Thả theo dòng nước trọng châu luận bàn.
Phạm rằng: « tôi có bạn vàng,
Cũng tài kinh tế cũng trang anh hùng.
Tức vì vận nước long đong,
Giận người chính-phủ trong vòng ngẩn ngơ.
Nếu không kêu lớn bây giờ.
Tìm đường thay đổi còn chờ lúc nao?
Anh va là đảng cầm đầu,
Quan triều ghen ghét toan hầu bắt va.
Thoát nàn va mới lánh xa,
Sang đây đi học vào khoa đứng đầu.
Rủi chi phải một trận đau,
Ra người chín suối bấy lâu đã rồi! »
Chàng nghe cất tiếng: « thương ôi!
Phải là Qua-Ngạn thời tôi biết người.
Cùng nhau lắm lúc vui chơi,
Cùng nhau chỉ đất vạch trời lắm phen.
Thề nhau gắng hết sức hèn,
Làm cho cõi Á đua chen với đời.
Bây giờ đến nỗi thiệt đời,
Thoạt nghe anh nói rụng rời chưn tay!
Si-noa xem lại bấy nay,
Bốn trăm châu huyện còn ai sánh bằng.
Bởi vì chánh nước lăng nhăng,
Ngoại-giao lại để cho thằng bá vơ.
Làm cho đến nỗi dật dờ,
Đụng ai nấy hiếp, ngẩn ngơ trăm đàng.
Nếu mà biết thế sửa sang,
Cấm bên nha phiến, dạy đàng quốc-dân.
Đủ bên hình thức tinh thần,
Thời mưu « hưng Á » mười phần trong tay. »
Phạm rằng: « ấy thiệt chí đây.
Lời anh so với lòng nầy như y.
Rồng nằm đáy bể thiếu chi,
Nào người tam cố thảo-lư đâu là? »
Hai người chước lạ mưu xa,
Bàn to nói lớn mê sa quên về.
Trời chiều bóng mát tứ bề,
Ghé thuyền đỗ bến rủ về chia tay.