Hồi thứ ba

Chàng về nghỉ đến rạng ngày,
Gài xiêm sửa áo tới ngay bến Đề.
Ngụt ngùi mây phủ tứ bề,
Gió liu liu thổi mưa dầm dề sa.
Một sông bão tố phong ba,
Thuyền qua không được lân la đến bờ.
Mưa to một trận bơ sờ,
Áo quần ướt hết trơ ngơ giữa đàng.
Quay mình trở lại vội vàng,
Liền đêm phải bệnh ngửa ngang trên đường.
Mối tình trăm nỗi vấn vương,
Trách vì con tạo lắm đường dở dang.

Một mình quán khách ngỡ ngàng,
Đêm dài dặc dặc lòng càng nhớ ai.
Ba thu dồn lại một ngày,
Tin nhàn thơ cá khôn bài nhắn nhe.
Mấy lần nệm phủ mền che,
Cách tuần chứng bệnh cũng nghe bớt dần.
Bến Đề gắng gượng mò lần,
Mặt soi đáy nước mấy phần khô khan.
Thất kinh chàng mới thở than:
« Vì ai cay đắng dở dang thế nầy?
Hay là chẳng thấy nhau đây? »
Dứt lời thuyền đã tới cây liễu còi.
Bước lên xem lại hẳn hoi,
Cửa nhà tan tác trong ngoài vắng tanh.
Có gà cỏ xước mọc quanh,
Giấu xưa lối cũ in hình mỉa mai.
Đưa đàng đón ngõ là ai?
Thừa ra tùng rũ liễu còi mấy cây!
Thương ôi! bữa trước chốn nầy,
Đêm nằm thấy mộng là đây rõ ràng.
Rành rành biển thảm non thương,
Mà nay gẫm lại thiệt trường mộng-xuân.
Bốn tường gió cuốn mưa vân,
Cửa gài, then đóng, giai-nhân nẻo nào?
Chín trìu ruột thắt quặn đau,

Bâng khuâng gốc liễu đi đâu bây giờ?
May đâu trong lúc tình-cờ,
Trông lên gốc liễu có thơ mấy hàng:

Thơ rằng:

« Gã Kinh-kha mến nghĩa chàng Đơn,
Đem thân bỏ sân Tần còn chẳng tiếc;
Chàng Nhiếp-chánh nhớ ơn Trọng-tử,
Cửa tướng Hàn sinh tử cũng như không,
Trải xưa nay mấy kẻ anh hùng,
Cũng lắm kẻ vẫy vùng trời đất.
Tuy chẳng phải thánh hiền đạt tiết.
Nhưng cũng là thiên điạ lưu danh ».

Xem rồi nghĩ quẩn nghĩ quanh.
Thực đây là chữ Phạm-khanh rõ ràng.
Trong lòng trăm mối ngổn ngang,
Nửa ngờ nửa nghĩ nhộn nhàng dây lâu.
Gần gần có một lão câu,
Tuổi vừa bảy chục, đầu râu đã già.
Gần chàng mới hỏi lân la:
« Biển đông Tán-Sĩ phải là chàng đây?
Tôi là kẻ giữ nhà nầy,
Hai nàng bận việc đi ngay bấy giờ.
Khi đi có để cái thơ,
Dặn rằng chàng tới thì đưa cho chàng ».

Một phong lão mới xin dâng,
Đưa rồi quày quả vác cần đi ngay.
Được thơ ngần ngại bấy chầy,
Mở ra chàng cũng xem ngay tức thì:

Thơ rằng:

« Buồn chi buồn cho bằng cơn loạn lạc;
Thảm chi thảm cho bằng lúc biệt li.
Ông trời già chẳng chút kiêng vì,
Kiếp hoạn nạn chí tam chí tái.
Có thơ đem lại, nhắn với thiếp rằng:
Cha thiếp đã bị trói bị trăng;
Đóng cũi đem về kinh-địa.
Ruột thiếp như dao như nĩa,
Lòng nào chẳng xót chẳng thương!
Thiếp liều mình vào chốn hổ lang,
Dẫu sống chết cha con một đàng cũng khỏe.
Trong khi phân rẽ, muốn thấy mặt chàng;
Dã chút tình thương, kẻo còn đeo đẳng.
Thời giờ quá vắn, chàng chớ chấp chi.
Hồng-nhạn lưu ly, bay đi về bắc,
Tủi mình phận bạc, tâm sự lỡ làng.
Biết ngày nào cho thấy mặt chàng?
Xui lòng thiếp trăm đàng khôn nghĩ.
Non Âu nước Mỹ, muôn dặm lạ lùng.

Trôi giạt dấu bồng, chàng kia thiếp đấy.
Chiêm bao nằm thấy: hồn phách mơ màng.
Gió giạt mưa tan, ra tình lạt bỏ.
Phụng bay, lan héo, đau đớn lòng đây!
Thời mạng khiến vay, phải sao chịu vậy.
Nhưng mà đấng trượng-phu bốn phương lừng lẫy.
Trong năm châu chẳng khác xóm làng.
Ví dầu lòng chàng, hỡi còn thương thiếp,
Dẫu cho muôn kiếp, như thấy mặt nhau.
Lọ phải mai chiều, ăn chung ở chạ.
Trăm đều dào dả, mới gọi rằng thương.
Thiếp chúc cho chàng, lập công mã-cách:
Để tên sử-sách, tuổi chàng trẻ trăng.
Khuyên chàng gắng công, muôn vàn trân trọng
Lòng thiếp còn mong: ngày khác biển đông,
Có kẻ anh hùng, ra phò chánh-trị;
Dựng cơ xích-xí, giành lại tự-do.
Thiếp bây giờ, xin cũng liều chút phận.
Bụi tro, quyết giong ruổi trong vòng nhung-mã.
Thiếp xin hầu hạ, thang thuốc cho chàng.
Đến lúc khải hoàn, rước mừng đầu ngựa.
Bắt tay mừng rỡ, chàng chắc thiếp còn.
Nếu rủi thon von, chàng không thấy thiếp;
Chắc là bỏ kiếp, trả nợ núi non,

Hồn xuống chín sông chàng đừng trông nữa.
Thương ôi! chiêm bao một bữa,
Nhớ chàng mà lụy nhỏ trăm dòng!
Cách trở ngàn trùng, trông chàng mà ruột đau chín khúc!
Biệt ly một chốc, xin tỏ chàng hay.
Khuyên chàng ra tay, giúp cho nhà nước.
U-Lan kính thơ.

Xem đi xem lại một khi,
Ở trong còn có một bì thơ riêng.
Nhìn ra thực chữ Hồng-Liên,
Gởi Ba-nữ-sử nói riêng chuyện chàng.
Đọc đi đọc lại thơ nàng,
Ngổn ngang trăm nỗi, thở than mấy lời.
Hình mai dạng liễu những người,
Vì cha bỏ mạng trong đời mấy ai?
Biết nhau vì một tiếng cười,
Đinh ninh lại đính một lời chung-thân.
Thơ nầy kể hết xa gần,
Trăm phần khẳng khái, trăm phần đắng cay.
Trước là vĩnh quyết đời nầy,
Sau là gắng gỗ cho đây rõ ràng.
Phải đâu nhi-nữ tầm thường,
Trượng-phu nghĩ cũng thẹn thuồng lắm thay!
Thương ôi! tài đức bực nầy!

Trời xanh nỡ để đọa đầy vậy ơ.
Hay là máy tạo bơ thờ,
Ngọc thành có ý đợi chờ lai-sanh.
Bông mai trăm đóa trên nhành,
Phải cho sương tuyết tan tành mới thơm.
Những người đức đủ tài gồm,
Phải cho trăm kiếp nổi chìm mới nên.
Đạo trời mầu nhiệm khôn tin,
Nghĩ người can đảm cũng khen cho tài.
Nàng Hồng gả Phạm cả hai,
Đem thân dốc gánh một vai nước nhà.
Xiết bao gánh nặng đàng xa,
Bây giờ vì cớ cha già nàng Lan.
Rủ nhau vượt biển băng ngàn,
Trời xanh còn có ý tràn chi đây.
Nàng Hồng tuổi trẻ thơ ngây,
Liều mình giả nợ sum vầy bấy lâu.
Một mình hỏi nói với nhau,
Nỗi lòng càng nghĩ càng đau càng sầu.
Trông quanh ngó quất giờ lâu,
Núi sông phưởng phất cỏ rau lờ mờ.
Người đi tấc bóng khôn chờ.
Trông lên bóng ác phất phơ non đoài.
Gió chiều sóng phủ chơi vơi,
Đỗ quyên mấy tiếng như xoi mạch sầu,

Một trời cảnh vật tiêu tao,
Lòng càng ngẫm nghĩ càng đau như dần.
Thuyền theo dòng nước dần dần,
Trở về Phủ-bí một lần nghỉ ngơi.
Ngày đêm trong dạ như giồi,
Sầu tuôn nét mặt, đau nhồi lá gan,
Nỗi mình khôn tả tấc gang,
Ai ai cũng ngỡ lại mang sốt mình.
Khuyên chàng gắng gượng giữ gìn,
Mạnh bề cơm cháo, bớt bên sách đèn.
Thơ nàng gác để một bên,
Mấy lần ghé mắt mấy phen đau lòng.
Ngồi buồn tưởng tới âm dung,
Thình lình như thấy bóng hồng vào ra.
Ngồi buồn chạnh nỗi gần xa,
Bỗng đâu lại giục lụy xa mấy hàng.
Trăm bề thảm ngửa sầu ngang,
Rượu cơm biếng miệng, sách đàn ngơ tay.
Vội vàng kiếm chước giãi khuây,
Mượn tình sơn thủy gỡ dây ưu-phiền.
Ngày trời thấm thoát như tên,
Xuân vừa đi khỏi, hạ liền tới nơi,
Canh-sơn nực tiếng vui chơi,
Vườn công chàng mới kiếm nơi giải sầu.
Xuân-viên qua mấy nhịp cầu,

Tới đây lại nhớ một câu khải-triền.
Phù-Lan mồ cả gần miền, (Phù-Lan = Franklin).
Động lòng chàng mới viếng thiêng anh hùng.
Bia tàn một tấm rêu phong,
Cỏ xanh ngui ngút từ trong chí ngoài.
Một mình cám cảnh ái hoài,
Nhớ trang tiên tấn thương người tự do.
Tên ngài kẻ nhỏ người to,
Dầu cho trong túi tì mò cũng ra.
Đương khi vận nước sút sa,
Tuổi hơn bảy chục thân qua ngàn trùng.
Một mình gánh cả ngoài trong,
Răn đe người nước cạn cùng chúa Anh.
Hai bên hết sức dỗ dành,
Sao cho lánh khỏi mối binh mới là.
Chúa Anh ỹ thế hành hà,
Gẫm trong sự thế nói mà vào đâu.
Đem thân thề với cao sâu,
Nước non mở mặt giãi giầu quản bao.
Quan sơn muôn dặm lao đao,
Kêu ca khắp nước ra vào nấy vua.
Cặn còi mỗi nỗi được thua,
Pháp Tây hai nước giúp ùa sức binh.
Bây giờ nhà nước hiển vinh,
Nghĩ ngài cũng lắm công trình gian nan,

Mà nay cỏ lán cây tràn,
Mồ không để tấm bia tàn mà thôi.
Cuộc đời nghĩ cũng thương ôi!
Trong vòng phú quí lắm người dở dang!
Một đời ở chạ ăn càn,
Ích chi cho nước, họa tràn đến dân.
Ngửa nghiêng ỷ thế ỷ thần,
Đè người bùn lấm, khoe thân bạc vàng.
Chạm long vẽ phụng đủ đàng,
Dối lừa mắt tục khoe khoang cõi đời.
Lại còn lắm chuyện nực cười,
Dựng đàn thất cấp lo đời cửu nguyên.
Thử đem so với anh hiền,
Cách nhau trời vực dặm nghìn biết bao.
Vả ngài chí cả tài cao.
Một đời lắm nỗi ngán ngao ê hề.
Trong khi sấm sét bốn bề,
Tìm ra điển khí gièm chê lắm người.
Ngài nghe vừa nói vừa cười,
Người đời biết một, biết mười là ai?
Những người nghĩ rộng lo dài,
Trăm năm chắc cũng có người biết ta.
Mà nay Âu Á gần xa,
Tàu-hơi dây thép hỏa-xa rành rành.
Nào là trị bệnh phá thành,

Gẫm lời ngài nói sắt đanh rạch ròi.
Kìa ai áo vải mấy người,
Ngửa nghiêng vua chúa đổi rời nước non.
Nghĩ ra cho thấu nguồn cơn,
Cũng vì đạo học mất còn đấy thôi.
Xưa kia Khổng-tử có lời.
Những trang hiền thánh là người thi thơ.
Ông cha dẫu có vật vờ,
Sức hèn dạng xấu trơ vơ sá nào.
Tủi mình chút phận lao đao!
Tuổi trời gắm ghé thảo-mao rồng nằm.
Theo thầy muôn dặm xa xăm,
Cũng vì tủi chút trăm năm nợ đời,
Xương-lê xưa cũng có lời:
Chí ta cầm vững cuộc đời sá bao.
Nay ta mượn chữ giải trào,
Thôi thôi nghĩ lại âu sầu mà chi,
Trước mồ lẩn quẩn khôn đi,
Người đâu lại gặp một khi lạ lùng:
Tay cầm điếu thuốc xuê-xoang,
Thung dung bước lại gần chàng hỏi han.
Chàng liền cất mão vội vàng,
Bày ra tên họ quê hương rõ ràng:
Người liền hỏi chuyện Đông-Dương.
Chàng bày hình thế mỗi đường cạn sâu,

Người rằng: « cám nỗi người Âu,
Lòng tham dạ muốn biết đâu mà lường!
Bây giờ coi thế Đông-Dương,
Trăm phần lắt lẻo như sương đầu nhành.
Nước chàng phía bắc chạy quanh,
Cách Nga một dải giạu ranh thế nào? »
Chàng rằng: « có thí gì đâu,
Một người một ngựa đã hầu khó ngăn ».
Nghe lời người cũng thở than,
Cất tay lại chỉ cây bàng cao cao.
Rằng: « kìa mấy cụm dùm dao,
Của ông Cao-tiết trồng bên mộ ngài ».
Chàng rằng: « Cao-tiết là ai? »
Người liền lớn tiếng rằng: « người quên sao?
Người này tiết cả tài cao,
Gẫm ra thiệt đấng anh hào Ba-Lan ».
Chàng rằng: « cách vực xa ngàn,
Nghe tên chưa rõ hành tàng thế nao.
Xin người tỏ nỗi cạn sâu ».
Người liền ngồi xuống gót đầu kể ra.
« Ba-Lan thuở trước mạnh mà,
Binh oai rầm rật gần xa về chầu.
Một tay nắm chắc tai trâu,
Khiếp oai khắp cả cõi Âu rụng rời.
Hay đâu cuộc thế đổi dời,

Một mai thế nước rã rời ngửa nghiêng.
Bây giờ xét lại căn nguyên,
Cũng vì các chúa giành quyền phân nhương.
Ba-Lan tuy gọi nước vương,
Nhưng trong chánh-trị nửa phường nước dân.
Trong khi kế vị lập quân,
Chọn dòng quí-tộc để dân-sự bàu.
Đến khi tuyển-cử lao nhao,
Đủ bề liến xáo gươm dao miệng mồm.
Giành nhau kẻ bốc người ôm,
Một tay quyền cối vạ rơm thiếu gì.
Nước nhà danh tiếng kể chi,
Dân nghèo kêu réo li bì ai thương.
Vậy nên thế nước dở dang,
Mình làm mình chịu ai thương đó mà! »
Chàng rằng: « năm trước quan hà,
Sang Âu có tới nước Ba một lần.
Bóng trời vừa rạng vẻ vân,
Hé song trông thấy dân bần lao nhao.
Nhóm nhau kẻ réo người kêu,
Van tiền hỏi gạo xiết bao giãi giầu!
Có người Hiếu-hộ theo hầu,
Thấy dân mất nước mà đau đớn lòng!
Về triều thưa lại các ông,
Lo rằng dấu trước, e chồng bánh sau,

Cuộc đời nghĩ đến mà đau!
Người dù mọn sức ta đâu nỡ lòng.
Phổ, Nga, Áo, cậy cường-hùng,
Rủ nhau chia xẻ hãi hùng gớm thôi.
Vậy mà múa miệng khua môi,
Rằng ta theo đạo chúa trời với ai? »
Người rằng: « thực cũng như lời.
Cõi trần đặng mấy chúa trời vậy a?
Ví bằng ai cũng thế mà,
Thì trong trái đất thái-hòa đã lâu.
Gớm cho thói tục hiểm sâu!
Những quân thế lợi mượn câu chúa trời.
Ba-Lan đến đỗi rã rời,
Gẫm ra há phải tội rơi vạ tràn.
Năm bảy trăm sáu một ngàn,
Vua Nga đánh lận Ba-Lan mấy lời,
Vàng ròng nói ngọt lắm thôi,
Rước vua Hi-lạp sửa ngôi trị đời.
Vua Nga là đức chúa trời,
Trăm đều trông cậy chúa tôi trên đầu.
Vua Nga mượn chước đè đầu,
Thừa cơ thu xé mưu sâu rạch ròi.
Vua Nga trăm cách móc xoi,
Xui cho dân giáo mượn hơi giềnh giàng.
Hai bên xáo thịt nhồi xương,

Rồi ra lại kéo binh sang dẹp nàn.
Làm cho hết kiếp Ba-Lan,
Nhường dân, cắt đất, kêu van dưới thành.
Nghĩ thôi thời cũng bực mình!
Lắm lòng mê tín, lắm tình dở dang!
Ba-Lan thế dẫu tồi tàn,
Lòng người còn hỡi mơ màng non sông.
Thề nhau chẳng đội trời chung,
Nằm gai nếm mặt vẫy vùng lắm nơi.
Lắm người dọc đất ngang trời,
Toan mưu giùm giúp cho người vẻ vang.
Phổ, Áo nghĩ cũng thẹn dường,
Mở vòng nô lệ, giục đường văn-minh.
Ba-Lan hết sức kinh dinh,
Bỏ bên dân chủ, lập thành chánh vua.
Chọn ngôi Hoàng-tử tôn ùa,
Đưa thơ các nước phân bua đủ đều.
Mỹ Âu các nước vui theo,
Vua Nga một mực kỳ kèo chẳng nghe.
Ba-Lan chống chõi trăm bề,
Dưới trên một bụng quyết thề non sông.
Còn như lẽ phải lẽ không,
Để cho thiên-hạ miệng chung giữa đàng.
Phải chi đặng ít nước cường,
Giùm công giúp miệng xuê-xoang đã rồi.

Tiếc thay quí-tộc những loài!
Quên bề nghĩa lớn toan bài lợi riêng
Phá nhau trăm kiếp ngửa nghiêng.
Trói tay cặp nách vẽ viên đủ vòng.
Vua Nga thấy thế bằng lòng,
Kiếm đều khêu khích đặt vòng hiểm sâu.
Rằng Ba-Lan đựng bấy lâu,
Lòng dân có muốn chi đâu vậy mà.
Rặt là những lũ kiêu-ngoa,
Vạch đàng chỉ lối chẳng qua báo thù.
Chúng ta nếu chẳng đè đầu,
Ngày sau khôn giữ cõi Âu hòa-bình.
Quân gia kéo đến thình-lình,
Xô nhào đảng chánh, dỗ dành phe quan,
Vậy mà những lũ dòng sang,
Giai cơm bầu nước chật đàng đón đưa.
Nết hư đến chết không chừa,
Sao cho mang ách lôi bừa mới vui.
Phổ-vương ra dạ phanh-phui,
Thay lòng, nỡ mặt, giúp vùi với Nga.
Ba quân sấm sét kéo qua,
Ba-Lan tức trí hóa ra chống kình.
Tôn ông Cao-tiết cầm binh,
Ngài là tướng giỏi thanh danh rõ rành.
Đương khi người Mỹ chống Anh,

Người theo giúp sức máy binh trong màn.
Lại qua quen với Phổ-Lan,
Mưu cao chước cả luận bàn lắm phen.
Tài ngài người Mỹ cũng khen,
Toan đem lộc cả đặng đền công cao.
Ngài liền phân giải thấp cao:
Xưa nay liệt-sĩ sá nào công danh.
Ta liều vạn tử nhứt sanh,
Xông tên đột pháo vì giành tự-do.
Còn như chức trọng quyền to,
Lòng tôi có chút măn mo chi mà.
Bây giờ trông lại nước nhà,
Bầm gan tím ruột biết là bao nhiêu!
Thân nầy sống chết cũng liều,
Sao cho rửa hổ mới tiêu hận nầy.
Mong cho dòng giống sum vầy,
Lòng tôi có chút thí nầy mà thôi.
Huống chi những thói nước người,
Giữ lòng độc-lập khôn giời lòng son.
Thương ta thế nước thon von,
Ngày đêm mong mỏi vuông tròn biết bao.
Nếu ta tham mến ngôi cao,
Buộc mình đất ấy mặt nào thấy ai.
Người đời lắm tiếng mỉa mai,
Rằng ta bỏ nước giúp người vậy a.

Trượng-phu mấy kẻ những là,
Xưa nay ai nỡ sa đà đám vui.
Nói rồi vẹt lụy sụt sùi,
Múa gươm phất áo trở lui nước nhà.
Mỹ Âu bốn phía gần xa,
Nghe ngài tiết khí nồng nà ngợi khen.
Năm bảy trăm chín một nghìn, (1792)
Liều đem chưu chấu chống kiền cỗ-xe.
Quân thua một trận rất ghê,
Vua nhà mất vía toan bề chỉ qua.
Sai quan đem bức tiên hoa,
Sang Nga xin hỡi giảng hòa thôi binh.
Ngài nghe nổi giận lôi đình,
Trách vua yếu đuối ra tình non gan.
Vua nhà chẳng chút nói bàn,
Nửa đêm lén lúc trốn sang đảng kình.
Trong khi dân chí tan tành,
Giầu cho chước nhiệm mưu lành khôn dung.
Mưu sâu mắc phải chước tung,
Tài hay mắc phải chúa dung cũng hoài!
Xưa nay nghĩa-sĩ mấy người,
Bỏ thân cho nước ngậm cười như không.
Khốn thay những kẻ bất trung,
Giùm lương cho dặc còn trông nỗi gì!
Ngài bèn quẹt lụy ra đi,

Chạy ra ngoại quốc chờ ky đợi thời.
Năm sau trung nghĩa những người,
Toan bề tái cử lại mời ngài ra.
Hịch truyền khắp cả gần xa,
Bắt vua đảng ngụy, chém cha lũ tàn.
Phổ-vương lại tiếp lính sang,
Đem quân ngài đón giữa đàng đánh tan.
Làm cho quân giặc muôn vàn,
Bốn bề tan tác không còn chiếc xe.
Ba-Lan lúc ấy cũng xuê,
Nga-hoàng nghe được hăm he luận bàn.
Ta không phá được Ba Lan,
Mặt nào còn thấy giang-san nữa mà.
Rầm rầm mười vạn binh qua,
Sai quan danh tướng Sổ-hòa cầm binh.
Phổ-vương nghĩ cũng tức mình,
Sai quân cứu viện đồng tình giúp Nga.
Ngài càng gắng hết sức già,
Một tay chống Phổ chống Nga ngang tàng.
Mộ thêm Tử-sĩ mấy ngàn,
Thề sông hẹn núi phơi gan chiến trường.
Binh Nga kéo tới chật đường,
Hai đàng ẩu chiến sa-trường máu trôi.
Trống la giậy đất giậy trời,
Tiếng người tiếng súng rả rời núi non.

Máu như suối, thây như cồn,
Binh Nga tiếp cứu ùn ùn tới thêm.
Quân Ba tan tác khôn tìm,
Ngài còn múa súng huê gươm một mình.
Trong khi tên đạn linh đình,
Bị thương ngài vụt nhào mình xuống yên.
Nổ gan một tiếng kêu lên:
« Ba-Lan mạng nước chết liền hôm nay! »
Quân Nga liền lại trói tay,
Trăm đều xui giục đầu ngay cho rồi.
Tức gan ngài nói mấy lời:
« Anh-hùng chí-sĩ lắm người xưa nay.
Quân thua thì phải bỏ thây,
Nước nghèo bỏ mạng lẽ ngay muôn đời.
Nếu ta gối vập đầu vùi,
Mặt nào còn thấy những người thế-gian? »
Ba-Lan mấy đạo binh-tàn,
Cám ngài nghĩa khí muôn vàn bó thân.
Chết gươm chết đạn mấy lần,
Thừa ra thì lại bỏ thân lửa nồng.
Thương ôi! sống chết một lòng,
Trao mình cho nước anh-hùng lắm thay,
Bâng kia còn đó bấy nay,
Khi ngài từ Mỹ thực tay ngài trồng.
Trồng cây nhớ kẻ anh-hùng!

Cam-đường còn đó động lòng biết bao! »
Nghe lời chàng cũng ngán ngao,
Than dài thở vắn xiết bao ngậm ngùi,
Người rằng: « trò chuyện quá vui,
Trông chừng bóng ác đã lui về đoài.
Ngày nào chàng đặng thảnh thơi,
Đôi ta có lẽ gặp hoài tại đây ».
Nói rồi hăm hở đi ngay,
Chàng còn đứng lại bên cây ngại ngùng.
Vận suy thương kẻ anh-hùng,
Nước nhà nghĩ đến đường cùng mà đau.
Dốc lòng ngày khác qua Âu,
Tới Ba viếng chút mộ khâu của ngài.
Phù-lan cũng đấng anh-tài,
Công thành thân thoái một đời mấy ai?
Ngậm ngùi tủi vận thương thời,
Xấp tay hai lạy mộ người bước ra.
Tứ bề mây kéo là đà,
Chớp giăng đến đất mưa sa đầy đàng.
Dưới cầu chạy núp vội vàng,
Tình cờ gặp lũ bên đàng đụt mưa.
Trỏ tay nhắc kể chuyện xưa,
Phù-lan bắt diễn giấu thừa là đây.
Một hồi bớt gió tan mây,
Đất nguôi hơi nóng, trời vầy màu thanh.

Chàng càng thơ thẩn một mình,
Ngâm thi điếu cổ ngụ tình thương kim.

Thi rằng:

« Cầu xuân-viên, cửa khải-tuyền,
Gió chiều lắt lẻo mặt trời nghiêng.
Một mình tới điếu mồ Phổ-Lan.
Dấu cũ ngậm ngùi dài thở than.
Tự-do là mồ chúng ta đấy,
Anh-hùng một tiếng giá ngàn vàng.
Tay cầm tờ hịch miệng kêu vang,
Dạ vàng gan sắt trao giang-san.
Biển trời muôn dặm thân long đong.
Nước nhà còn mất thề một lòng.
Ngàn cân máu nóng, ba tấc lưỡi,
Quỉ khóc, thần sầu, người há không.
Một bữa Ba-lê định điều ước,
Chiếc buồm đưa người về Nựu-ước.
Mây tan, khói rã, trăng sáng lòa,
Bốn bể xa gần chung hưởng phước.
Nhớ ngài xưa kia tài bắt điễn,
Sấm sét cũng nghe ngài sai khiến.
Một giây hai đầu ngồi nói chuyện,
Xa xôi chẳng luận cách trời biển.
Rất đổi sấm sét còn nghe lời,
Đầu đen máu đỏ huống chi người.

Bây giờ tự-do khắp bốn biển,
Biển đông sẵn lòng xin rước ngài ».

Lân la cách đặng mấy ngày,
Nàng Ba chàng cũng sắm bài tới thăm.
Rủi đâu cảm chứng âm trầm,
Ngày đêm luống những ngồi nằm lôi thôi.
Nhơn khi vắng vẻ đương ngồi,
Thấy tờ nhật-báo mấy lời nói qua.
Rằng: « có tướng Đốn-gia-La,
Bị tù nay đã thoát ra cõi-ngoài ».
Chàng liền vỗ ghế cả cười,
« Ông này có phải cha người hay không? »
Ngờ tin lắm nỗi ngại ngùng,
Tìm Ba-nữ-sử cạn cùng đầu đuôi,
Cầm thơ vội vã đi xuôi,
Qua sông Đề-thủy tới nơi xe đình.
Lên xe ngồi dửng một mình,
Một giây xe chạy co quanh mấy đàng.
Bây giờ xin kể chuyện nàng,
Ba-minh là hiệu cũng làng Ái-Lan.
Cha em cháu cũng vẻ vang,
Một phần máu nóng chung toan nước nhà.
Âm thầm một cháu một cha,
Liều mình ở lại nước nhà lo mưu.
Khuyên dân gắng nghĩa đồng cừu,

Sao cho thoát khỏi mối thù mới thôi.
Ở nhà một mẹ bồ côi,
Đưa qua nước Mỹ nàng nuôi dưỡng già.
Nước nầy cũng lắm dân nhà,
Ngày đêm nàng cũng lần là giỗ khuyên.
Bày cho bỏ của bỏ tiền,
Giúp cơn tổ-quốc nghèo hèn gian nan.
Hai vai một gánh giang-san,
Trong phe Độc-lập luận bàn một tay.
Nước nhà lắm nỗi đắng cay,
Thuật tình nàng vịnh một bài trường ca.
Cạn còi mọi nỗi gần xa,
Người Anh thế ấy dân nhà thế nao?
Nghe qua ai cũng ruột đau,
Thế gian lắm kẻ tầm phào chơ vơ.
Khen thay liễu yếu đào tơ,
Liều mình sống thác mong chờ sông trong.
Thề đem chút sức muỗi mòng,
Toan mang núi lớn anh hùng lắm thôi,
Lòng băng giạ ngọc trau giồi,
Vui son, cợt phấn, mùi đời quản bao.
Trái mai ba bảy đã cao,
Tình xuân chẳng chút chào rào với ai.
Thử đem so với những người,
Sớm đào tối mận một đời ra chi.

Một mình ngẫm nghĩ thầm thì,
Trông ra xe đã tức thì tới nơi.
Xuống xe lại gõ cửa ngoài,
Chẳng ai ơi hử, đợi hoài giờ lâu.
Một giây, thấy có con hầu,
Chạy ra mở cửa đầu lâu nực cười.
Thoạt trông mới thấy nửa người,
Mày môi thấp mũi trớt tai đỏ đầu.
Răng dài như thể răng hầu,
Mặt như rổ sảo nói câu cà cà.
Thấy chàng ra bộ nồng nà,
Vọt mồm hỏi giẳn: « chú là người đâu? »
Chàng liền giả dạng yếm âu,
Rằng: « tôi Tán-sĩ tới hầu chủ cô ».
Hầu liền vác mặt ngó vô,
Nhăn mày nhíu mũi rằng: « cô sốt mình.
Khách quen còn chẳng dám kinh,
Huống chi thứ chú mà tình nghĩa chi ».
Chàng càng ruột tức trì trì,
Men men muốn mắng nằn nì lại thôi.
Người Lan lắm nỗi lôi thôi,
Xưa nay vẫn ghét những người Chi-na.
Bây giờ nhìn lậm đến ta,
Vậy nên đến nỗi làm ra bơ thờ.
Chàng liền móc túi lấy thơ,

Tay trao miệng cũng dặn sơ mấy lời.
Rằng: « tôi tếch dặm xa xôi,
Tới đây thăm viếng muốn dôi tấm lòng.
Ngày nào gặp nhịp thong dong,
Tôi xin trở lại cạn cùng tóc tơ.
Nói rồi bẽn lẽn đi ngơ,
Tới ga xe lửa đợi chờ xe qua.
Người Lan lại gặp năm ba,
Mặt tro áo bụi tuổi và ba mươi.
Xúm nhau chỉ trỏ nói cười,
Kêu: « thằng đuôi chuột! lắm lời bá vơ! »
Chàng càng nghảnh mặt làm ngơ,
Trông quanh ngó quất bơ vơ trong ngoài.
Chợt đâu trông thấy một người,
Tuổi còn trong trẻo tới nơi vội vàng.
Hỏi chào ra dạng nể nang,
Thưa rằng: « ngài phải là chàng phương xa? »
Gặc đầu chàng cũng ừ qua,
Người rằng: « tôi thực tớ nhà cô Ba.
Mời ngài xin trở lại nhà,
Con hầu vô phép hóa ra mất lòng.
Giục tôi săn bước theo ông,
Hỡi xin trở lại cô trông quá chừng ».
Chàng còn lượng-lự ngập ngừng,
Rằng: « anh trở lại; thôi đừng mời chi.

Tôi nay thất ý nhiều bề,
Con hầu lũ quĩ xãi xi đủ lời.
Chấp chi những lũ ma trơi,
Nhưng tôi bận việc xin thời bữa sau ».
Người rằng: « cô hỡi còn đau,
Chối người, kiếu khách, bấy lâu dưỡng mình.
Bữa nay ngài tới thình lình,
Cô tôi nghe nói ra tình mừng vui.
Còn như con tớ lùi hùi,
Cô tôi chưa biết đầu đuôi sự nầy.
Ngài đừng hờn trét giận lây,
Xin ngài hỡi thứ lổi nầy cho nao.
Cô tôi tính khí hùng hào,
Trong khi tức giận phải đau đớn hoài.
Nếu cô hay đặng mấy lời,
Sợ e nổi giận tức thời lại đau.
Tôi đà rõ chuyện con hầu;
Còn ngài lại nói lũ đâu nữa nào? »
Trong khi trò chuyện lao nhao,
Người Lan xúm lại hỏi trào đon ren.
Rằng: « tôi thật lũ quân hèn!
Chẳng hay ngài cũng bạn quen cô nhà.
Chúng tôi ngỡ khách Chi-na,
Rủ nhau nói bỡn hóa ra quá lời.
Cậu em xin lỗi với ngài,

Thôi ngài nõ chấp chi người bá vơ ».
Trong khi vân vĩ ngẩn ngơ,
Mồ hôi nước mắt dật dờ khá thương.
Nghe lời chàng cũng nhẹ dường,
Vả chăng lại biết là nường thiệt đau.
Buồng gan coi dạng cũng dàu,
Bằng lòng chàng mới cắp nhau lại nhà.
Tới nơi thấy một bà già,
Cười cười nói nói xem ra mặn mà.
Rằng: « tôi là mẹ cô nhà,
Bấy lâu có viết thơ qua nàng Hồng.
Nói thầy là đấng anh hùng,
Khuyên nàng nên kiết tình-chung sum vầy.
Con tôi nghe nói tin thầy,
Ngày đêm mong mỏi bấy chầy đã lâu.
Rủi chi phải gặp trận đau,
Liệt giường liệt chiếu đã hầu tháng nay.
Các ông thầy thuốc ngà ngầy,
Sợ e chuyện vãn mình gầy ốm o.
Vậy nên dặn đón dặn dò,
Đừng cho rước khách chuyện trò với ai.
Bữa nay may lại gặp ngài,
Con hầu tưởng kẻ rong rài đâu đây.
Làm cho dắc nhợ dắc giây,
Chạy đi chạy lại nhọc thầy lắm chi.

Tuy rằng tại nó ngu-si,
Gẫm ra cho kỹ lỗi thì tại ta.
Lòng thầy rộng rãi cao xa.
Xin thầy miễn chấp con nhà: cám ơn ».
Chàng rằng: « việc ấy không cơn,
Cô nhà đã tiếp còn hờn nỗi chi ».
Bà rằng: « nó bệnh li bì,
Áo quần lết mết ra gì đặng đây,
Thầy dù thương chút thơ ngây,
Xin cho lỗi phép ra đây ngồi hầu ».
Chàng rằng: « trông tưởng bấy lâu,
Lòng đà tưởng đến lẽ đâu dám nào ».
Dây lâu nàng mới bước vào,
Chàng liền đứng giậy hỏi chào bắt tay.
Nàng càng hớn hở vui vầy,
Tay xô ghế dựa rằng: « đây chàng ngồi ».
Chàng ngồi liếc mắt nhìn coi:
Tác chừng hâm tám con người bảnh bao.
Da trong, răng trắng, mắt sâu,
Hai cồn má cóp, mái sau tóc cuồn.
Xem ra nét mặt như buồn,
Nàng liền cất tiếng nói luôn mấy lời:
« Nhật-trình thiếp thấy lắm nơi,
Rằng người Nhật-bổn là người công trung,
Lại thêm được giấy nàng Hồng,

Bấy lâu nghe tiếng mong trông gặp chàng.
Bữa nay chẳng ngại đàng trường,
Tới đây thăm viếng bĩ bàng biết bao ».
Chàng rằng: « tiết cả tài cao,
Lòng tôi trông mến đã bao lâu rày.
May đâu lại gặp bữa nay,
Nghe nàng có cảm, chầu rày bớt chưa? »
Nghe lời nàng mới liền thưa:
« Bệnh tôi chứng gốc có bưa đâu là.
Đau lòng vì chút nước nhà,
Trăm đều bức tức hóa ra chứng này.
Bây giờ nghe cũng hơi khuây,
Muốn cho chàng ở nửa ngày mà chơi.
Giảng cho khích liệt những lời,
Bàn cho những chuyện cuộc đời phong lưu.
Kể luôn đến chuyện Á-châu,
Sao cho thiếp đổi bụng sầu làm vui ».
Chàng rằng: « dạ những ngậm ngùi,
Muốn cho nàng nói để tôi nghe cùng ».
Nàng càng ra dạng ngại ngùng,
Mím môi cười gẫm ập ùng lại thôi.
Chàng còn ngẫm nghĩ lặng ngồi,
Xưởng cao đã giục tiếng còi sang tư,
Trời chiều gió thổi phất phơ,
Gọi hầu nàng bảo bây giờ cuốn song.

Trông ra vườn ruộng mênh mông,
(văn bản không rõ)i xanh thấp thoảng chập chồng bên mây.
Chim kêu thảnh thoát lùm cây,
(văn bản không rõ)-le cộc-cộc mấy bầy bên sông.
Vác bừa cầm cuốc mấy ông,
(văn bản không rõ)y roi, tay thẹo, mục đồng năm ba.
Xung quanh thảy hứng thú nhà,
(văn bản không rõ)ồi cao trông thấy xa xa càng nồng.
Quanh tường có một giãi sông,
(văn bản không rõ)ớc leo qua đá chập chồng sóng rên,
Nghe như tiếng sáo tiếng sinh,
(văn bản không rõ)t vùng cảnh vật trăm tình nước non.
Trỏ tay nàng mới nỉ non:
Kìa gò, kìa vũng, kìa cồn, kìa sông.
Ngày xưa lắm máu anh-hùng,
(văn bản không rõ)nay chỉ thấy mấy vùng mỏ than!
Bốn bề làng xóm ở tràn.
(văn bản không rõ)n kia sót môt bia tàn phất phơ ».
Nghe lời chàng cũng ngẩn ngơ,
(văn bản không rõ)ng rằng: « chàng dẫu có ưa chốn nầy.
Thời nên dọn dẹp tới đây,
(văn bản không rõ)ều mai ta sẽ sum vầy vào ra.
(văn bản không rõ)đai bàn đạo chánh lẽ tà,
(văn bản không rõ)m he lũ dữ, xót xa người cùng.
Chiều chơi gió mát trăng trong,

Tìm lời áo diệu giãi lòng ưu tư.
Ấy là lòng thiếp bây giờ,
Phù-Lan xưa cũng đợi chờ đó thôi ».
Chàng rằng: « ấy vẫn chí tôi ».
Cất tay nàng lại chỉ hồi sông sâu:
« Nực cười thiếp có tật câu,
Chỗ kia là chỗ giãi giầu nắng mưa.
Chẳng hay chàng tính có ưa? »
Chàng rằng: « tính cũng tình cờ như cô.
Lúc còn lánh dấu giang hồ;
Sớm chơi suối bắc, tối mò khe nam.
Từ khi việc nước lam nham,
Một mình ra bắc vào nam luông tuồng.
Bấy lâu cắp trắp Tây-dương,
Chăm bên đèn sách, dẹp đường cần giây ».
Nàng rằng: « sông cũng gần đây,
Rủ nhau ta sẽ một giây một cầu.
Chơi cho khuây khỏa lòng trần,
Mượn tình cá nước bớt phần lo âu ».
Nhỏ to đủ mỗi đồ câu,
Vội vàng giục giã con hầu sắm xong.
Cắp tay ra đến bờ sông,
Lần theo dòng nước tới vùng vịnh khong,
Rộng dài ước đặng nửa cung,
Hai bờ dương-liễu bay bông là đà.

Năm ba cụm đá gần xa,
Chập chồng giữa vũng leo ra cùng ngồi.
Vừa câu, vừa nói, vừa cười:
« Thử ai nhiều ít định bài hơn thua! »
Trong khi cười nói thừa ưa,
Giựt lên thả xuống đã thừa mấy phen.
Mặt trời chưn núi vừa chen,
So đi đếm lại chàng hèn một đôi.
Nàng càng rặc rậc nói cười,
Giục về chàng cứ rốn ngồi lại câu.
Cầm cần chăm chỉ trước đầu,
Nàng càng cợt nói lắm câu trò cười.
Thình lình một tấm trắng tươi,
Lùng bùng mặt nước chơi vơi đầu cần.
Đo ra hai thước gần gần,
Giật mình nàng cũng ngại ngần thở than.
Chàng rằng: « ấy cũng giu-tang,
Việc đời ai tính vội vàng đặng chưa ».
Nàng rằng: « chàng ngạo lắm ư?
Đếm ra thiếp đã chịu thua con nào? »
Chàng rằng: « xem lại thử nao!
Cá tôi lớn gộc nàng sao dám bì? »
Nàng rằng: « thiếp ước khi thì:
Đếm đuôi ai có đếm gì nhỏ to.
Vả chàng đem lại mà so,

Cá đây dù nhỏ thơm tho ngọt ngào.
Cá chàng dù lớn thế nào,
Sắc không đẹp đẽ thịt nào tốt tươi.
Thiếp xin sánh thử với người,
Để cho thiếp nói trò cười chàng nghe:
Xưa kia có ả Nhung-li,
Một roi lên ngựa bốn bề vỡ tan.
Mười ngày dựng đặng gian san,
Tranh vương đồ bá vẻ vang thế nào.
Còn như Nhược-tổn[1] anh-hào,
Lùa dân giữa chợ, chống nhào nước Anh,
Ba lần đánh phá tan tanh,
Mình lên thống-lãnh oai danh một thời.
Phá-luân dấy tự đảo côi,
Làm vua nước Pháp mấy hồi chi đâu.
Dùng binh đã lắm chước mầu,
Tí ti chiều cuốn cõi Âu đã rồi.
Đai vang động đất kinh trời,
Mấy trang vua chúa đầu vùi gối co.
Á-gia cũng đấng tài to, (Thiers)
Sang hèn chẳng chút đói no thí nào.
Một thân vì nước giãi giàu,
Lòng son đến lúc trắng đầu như y.
Một tay chống lại khuynh-nguy,

Đắp nền nhà nước, trị vì non sông.
Lại còn như gã Hòa-thông,[2]
Hình phơ gió thổi, gan nung lửa nồng.
Máy mầu cướp cả thiên-công,
Tìm hơi sức nước thay công việc người.
Tàu xông sóng lớn ngút trời,
Non cao bãi cả dặm dài xe bay.
Gẫm trong thế-giới xưa nay,
Công danh ai có sánh tày nữa nao.
Ấy là rặt đấng anh-hào,
Nhưng khôn khéo thế có cao lớn gì.
Khác người có chút thí-thi,
Khen cho óc lớn, kể gì thây to.
Đời nầy là cuộc so đo,
Đua tài sánh trí nhỏ to với người.
Phải như mọi rợ những đời,
Đánh thoi đánh đấm rộng dài khoe thân.
Hẳn như chàng nói vân vân,
Thế-dan lắm kẻ cao thân dài giò.
Mọi đen cũng có người to,
Những quân đánh vật lắm trò hung hăng.
Đem ra sánh thử tài năng,
Trăm đều dại dột đâu bằng người ta ».
Chàng cười mũn mĩn thưa qua,

« Hay nàng nói nhẽ chê ta nhỏ người.
Tôi đâu dám nói trò cười,
Cá tôi lớn thực bằng mười cá cô.
Cá con xin thả xuống hồ ».
Nàng rằng: « thói tục ra trò chuyện chi.
Đàn ông lắm nỗi phi-vi,
Một lòng đổi lại thay đi vội vàng.
Nghĩ ra cũng ghét cho chàng,
Tham mê của mới, phụ phàn tình xưa ».
Nghe lời chàng mới liền thưa:
« Khen nàng bắt nhặt bắt sưa đủ trò.
Hở răng hết chỗ đôi co,
Tiếc nàng chẳng được cá to một lần ».
Nàng càng cười nói rần rần:
« Trời đà chấp choáng cuốn cần về ta ».
Lần lần trở lại đến nhà,
Nàng rằng: « chơi thực sa đà mê say!
Bấy lâu mới đặng bữa nay,
Mười phần sầu não bớt ngay cả mười.
Hiềm vì chút cũng nhọc người,
Xin chàng thứ lỗi cho tôi nằm vày ».
Mẹ già mở cưa ra ngay,
Hỏi: « trong mình mẩy con nay thế nào? »
Nàng rằng: « hai trẻ trốn đâu,
Nghĩ ra thực cám ơn sâu của chàng ».

Xúm nhau kéo ghế bày bàn,
Cười to nói lớn rượu xoàng xoàng say.
Đèn bông rực rỡ một cây,
Thịt tươi cá tốt mâm đầy bưng ra.
Cá câu lạ miệng xuê xoa,
Ba người khen ngợi nồng nà không thôi.
Nhơn cơ chàng hỏi mấy lời:
Người Anh dạy bảo nước người đủ phương.
Thuyền bè buôn bán đủ đường,
Toan mưu làm hại nước nường lắm chăng?
Đặt ra lắm phép lăng nhăng,
Người Lan đánh cá bắt năng thuê tàu ».
Nàng liền mặt ủ mày dàu,
Rằng: « ừ » thực thế, còn hầu mong chi!
Thù nầy muôn kiếp còn ghi »
Nghe lời như thể tức thì nổ gan.
Mẹ già vội vã khuyên can,
Nàng liền nhắc chuyện hồng nhan nước chàng:
« Thiếp nghe bên xứ Đông-dương,
Lắm người băng tuyết lắm trang đá vàng.
Ngóng mây rồi lại trông nhàn,
Mai chiều mong mỏi cho chàng trở yên ».
Chàng ngồi mủm mỉn thưa liền:
Tính tôi lúc nhỏ có hèn gì đâu.
Từ khi trải cuộc biển dâu,

Mây trôi bèo giạt lòng đâu mơ màng.
Bó chưn múa hát những trường,
Kém bề trau chuốt non trang áo quần.
Thẹn thuồng xoác cánh nâng chưn,
Mê lòng chim chuột, liều thân trâu bò.
Vậy nên ả nhỏ ả to.
Coi tôi nửa mắt ra trò chuyện chi.
Tôi càng giả dại giả si,
Nệm đơn gói chiếc có khi một đời. »
Nàng rằng: nếu thực như lời,
Xui lòng tôi nghĩ xa khơi lắm đều.
Những trang yểu liễu thơ đào,
Muốn cho ngang dọc trời cao biển dài
Thế thì phải kiếm lấy người,
Tháng ngày hẩm hút chiều mai vui vầy.
Rồi ra giắc nhợ giắc giây,
Tay bồng tay ẵm cả bầy nhỏ to.
Càng đông càng nhọc càng lo,
Trăm bề ràng buộc sao cho thỏa lòng.
Chi bằng các chú đàn ông,
Trăm đều nhờ vợ săn trong sóc ngoài.
Dạy con nuôi cháu hẳn hoi,
Còn mình mặc sức ra ngoài múa men.
Còn như thưởng cúc xem sen,

Yêu màu thì phải, bẽ bèn mà chi?
Xem trong Âu Á lắm khi,
Những trang liệt-nữ vu qui mấy người.
Đàn ông kể hết đủ mười,
Ở son ước một và người mà thôi.
Chuyện đời nghĩ cũng thương ôi!
Tình người há phải cây côi đá còi.
Tình xuân ai cũng như ai,
Sợ vì mang chút nợ đời đấy thôi. »
Chàng rằng: « nàng nói mấy lời,
Gẫm ra cũng thực lẽ đời xưa nay.
Nhưng mà còn chút lẽ nầy,
Tôi xin kể thử ra đây mấy ngài.
Triết-học Cảm-đỗ người tài,
Cùng ông Nựu-đốn cũng người thánh-nhân.
Ma-hạo-lãnh, Ba-lưu-Mân,
Và Hoa-thạnh-Đốn mười phần từ chương.
Võ-văn Uyễn-mỹ hai chàng,
Mình làm thống-lãnh vẻ vang lắm mà.
Ấy là rặt kẻ tài-hoa,
Xưa nay có lấy đàn bà khi nao.
Vả chăng quan cả lầu cao,
Lưng eo mình nhẹ biết bao nhiêu nàng.
Còn trong làng xóm thôn phường,
Má hồng răng trắng lắm trang lạnh lùng.

Nhưng mà thích chí đẹp lòng,
Kiếm chưa được một, đâu hòng có hai.
Xưa nay lắm kẻ thở dài,
Gái khôn bạc phận, trai tài kén đôi.
Đàn ông rủi phải lôi thôi,
Vướng cô mũ-mít gỡ đuôi dính đầu.
Mắc tăm mang tiếng bạn bầu,
Lớn thì mất nước, nhỏ hầu táng gia.
Người xưa có nói vậy mà:
Má đào mày liễu ấy là dao phay ».
Nghe rồi nàng trả lời ngay:
« Nếu đây có kẻ gồm hai sắc tài.
Chưn tay chẳng lụy đến ai,
Mưu mô duy-ác cũng tài Trương-lương.
Giốc lòng chắc đá bền vàng,
Tình người dù vậy bụng chàng nghĩ sao? »
Chàng rằng: « ấy việc chiêm bao.
Đê long vì gió, cầu nhào vì mưa.
Nàng không phải kẻ thừa ưa,
Mơ màng tôi có biết thưa lẽ nào ».
Nàng rằng: « mộng mị chi đâu,
Ấy là tôi nói móc vào ruột gan.
Thói đời lắm nỗi đa đoan,
Người đà biết chán, mình toan giấu gì.
Nàng liền đậy miệng thầm thì,

Rằng tôi nói đấy cũng vì nàng Lan.
Bây giờ tôi hỏi thiệt chàng,
Có tình, hay cũng giữa đàng trò chơi? »
Chàng còn mũm mĩn miệng cười,
Nàng liền vội vã đỡ lời nói ngay:
« Mối tình cũng bởi trời xây,
Dầu cho cách trở mối dây khôn rời.
Việc đời nghĩ cũng nực cười,
Một người một xứ đánh đôi lạ lùng ».
Luôn cơ chàng mới cạn cùng:
Nàng đi mấy lúc thủy-chung thế nào?
Nhật trình có mấy lời rao,
Có ông lão-tướng thoát lao ra ngoài.
Chuyện nàng chưa rõ cặn còi,
Xin cô có biết tỏ bày thủy-chung ».
Nàng càng cười nói ập ùng:
Chàng hay hỏi quấy sao không nể người? »
Chàng rằng: « hỏi một biết mười ».
Nàng liền hớt tiếng vội cười nói ngay:
« Đặng thơ từ lúc những ngày,
Bấy lâu đã vắng chầu rày còn trông.
Hai nàng tuổi dẫu trẻ trong,
Những bên tài trí cũng dòng lược-thao.
Bây giờ nhảy hiểm trèo cao,
Thân ngàn vàng nỡ đem treo miệng hùm ».

Rượu trà cười nói um sùm,
Tiệc rồi chàng mới hườm hườm xin ra.
Cầm chàng nàng mới thưa qua:
« Kiếp người bóng bọt dầu ta dầu người.
Thiếp nay rặc rặc nói cười,
Ngày mai e lại ra đời quỉ ma.
Chàng nay trò chuyện cùng ta,
Năm sau cũng trở lại nhà cố hương.
Nếu không bận việc vội vàng,
Rốn ngồi hỡi cạn chén vàng hôm nay ».
Dắt tay lên chốn lầu tây,
Gió trăng trong trẻo khói mây phập phồng.
Núi sông ngàn dặm mênh mông,
Ngồi cao trông thế trong lòng bàn tay.
Chàng rằng: « còn chút riêng tây,
Nàng dầu không chấp tôi đây dám bày ».
Nàng rằng: « chàng hỡi nói ngay,
Việc chi đến đỗi bận đây lắm nào ».
Thưa rằng: « nghe tiếng bấy lâu,
Trường ca một khúc điệu sầu nhịp cao.
Truyền ra khắp cả đâu đâu,
Đàn bà con nít ca âu đầy đàng.
Bây giờ xin thiệt với nàng,
Ca nghe một khúc bỉ bàng lắm chăng? »
Nàng quay lại mẹ hỏi rằng:

« Tôi từ phải bệnh ít năng chơi đàn.
Trong lòng lắm lúc bàng hoàng,
Bữa nay may lại gặp chàng tới chơi.
Trong mình nghe cũng hơi nguôi,
Xin cho tôi gảy một hồi chàng nghe ».
Mẹ già ngẫm nghĩ rằng: « è,
Nhưng đừng lớn tiếng sợ e nhọc mình ».
Lựa đàn nàng gảy tính tinh,
Hé răng ca một khúc tình chua cay,

Ca rằng:

Biển dù cạn, non dù sa,
Thù nầy dặc dặc căm lòng ta.
Xin ai ngóng lại nước non nhà...
Đoái quắt trông quanh lòng xót xa.
Xưa kia là chốn phiền-ba,
Mà nay cỏ lán cây dùm dà.
Máy dệt tan tành lò khói rã,
Xe nước bỏ hoang ruộng sút sa.
Chợ vắng đêm khuya giù-gĩ la.
Chùa hoang, tháp bỏ, dơi làm nhà.
Làng xóm điêu tàn, rêu cỏ khô khan.
Dế reo, chuột túc đốm nhấp nhan.
Con ông cháu cha ai biết đến?
Chăn trâu ngơ ngẩn đứng đầu đàng.

Nhà tơi, vách tả, áo lang thang.
Một nắm xương tàn vài ngọn lang.
Kể từ đất nước về cường-Anh:
Ông cha sự nghiệp phá tan tành.
Quân yêu chúa quỉ kéo nhau đến,
Ăn ở càng ngày càng hà hành.
Cổ gông, chưn cùm, roi ướp đít.
Máu khô, mỡ ráo còn rán sành.
Hùm còn kém gan, rắn thua độc,
Quơ bốc quơ hốt phá phui phanh.
Túng thuê cầm cố ruộng đất sạch.
Nhà cửa tan hoan không một manh.
Cha mẹ bỏ con, chồng bỏ vợ,
Kiếm ăn trôi nổi thân lanh đanh.
Giỗ chạp bỏ hết, ông bà quên,
Thây trôi xác đói giao quạ kêu.
Mưa sầu gió thảm bay ngui ngút
Núi sông rơi lụy cây cỏ rên.
Thương ôi! Non nước chết đi rồi!
Mặt nào còn sống để trơi đời?
Thà liều một thác cho khuất mắt,
Trong vòng tôi tớ khổ lắm thời!
Hè ta đuổi cổ quách lũ hời.
Xong rồi múa hát chơi ta chơi.....
Mấy lần gió hoãng mưa vày,

Nỉ non trăm giọng, đắng cay ngàn chiều.
Trong khi dắng dõi dật dìu,
Thoặt khêu giọt máu, thoặt xìu buồng gan.
Động lòng chàng cũng thở than,
Khen rằng: « hay thiệt! rõ ràng là hay!
Lắm người biết tiếng xưa nay,
Nên hư thấu đến ngọn dây tiếng đàn.
Nay nàng dạ ngọc gan vàng,
Nghìn cân máu nóng chảy tràn năm dây.
Dù tôi là bực thơ ngây,
Nghe qua cũng khiến như say như cuồng ».
Nàng càng nét mặt thêm buồn,
Than rằng: « thiếp có muốn tuồng ấy chi!
Bởi vì cảnh ngộ lưu ly,
Vậy nên mở miệng chẳng bi thời sầu.
Cuộc đời nghĩ đến mà đau,
Ai ưa những kẻ đè đầu xưa nay.
Những anh lắm nỗi đắng cay,
Coi người nước Ái như bầy muông chim.
Phía năm trăm kiếp nổi chìm,
Nhà tơi vách tả khôn tìm đụt mưa.
Phất phơ áo mỏng giày sưa,
Xông pha gió bụi giày bừa tuyết sương.
Trẻ trong đói phải bỏ trường,
Gái tơ đói phải ngơ đường chồng con.

Lúa khoai cắt sống gặt non,
Đi khuya về tối bụng còn đói xo.
Đêm đông lạnh lẽo lo co.
Tay khâu tay dệt măn mo không rồi.
Chủ vườn chủ ruộng lắm người,
Ăn hà ăn hiếp thuê mười bắt trăm.
Xúm nhau kẻ xắt người bằm,
Anh Tô hai nước quyết chăm đè đầu.
Lại còn múa miệng khua hầu,
Lắm đều chưởi rủa, lắm câu chê gièm.
Rằng người Ái dốt lem-nhem,
U mê ám chướng ai thèm dạy chi!
Chi-na, Ấn-Độ ngu-si,
Đem so người Ái khôn khi bằng mười.
Làm cho thiên-hạ chê cười,
Nước Anh mang tiếng vì người Ái-Lan.
Nói sao nói chạ nói càn,
Thiếp xin kể thử mấy trang anh-hùng,
Họ Vu là đấng hiện bùng (于 𪽋 寕)
Họ Oai,[3] họ Mộ[4] cũng dòng kinh-luân.
Lưu-Ninh rất bực tướng-quân
Cùng ông Lâm-Đốn xuất cùng xưa nay.[5]
Mã-Bôn, Nhược-Tổn[6] hai ngài, (馬 奔)

(văn bản không rõ)ều làm Thống-Lãnh cũng người Ái-Lan.
Anh hào học-sĩ muôn vàn,
(văn bản không rõ)ể ra xe chở đấu tràn thiếu chi.
Bây giờ đến đỗi lưu-ly,
Trăm quân cướp cạn, trách gì người hư.
Nước Anh gẫm lại bây giờ,
(văn bản không rõ)ua Tàu bốn biển, dựng cờ năm phương.
Lắm người sợ nớ phú cường,
(văn bản không rõ)m đều hót chạ, kiếm phương nịnh xằng.
Gọi ta là đảng hung hăng,
Chẳng thương mà lại vật giằn thế ư.
Thương ôi! Tuyết giũa sương cưa!
(văn bản không rõ)ăm he liễu yếu cũng chừa tùng xanh.
Phép lung lệnh dữ nước Anh,
(văn bản không rõ)ùm xiềng Ấn-Độ khôn hành Ai-Lan.
Định-bàn chờ lúc vào quan,
(văn bản không rõ)là người muốn ngỏa toàn đấy thôi.
Thiếp thì chẳng quản chi đời.
Khen chê phó mặc cho người khen chê.
Vả người thế-giới ê-hề,
Mỗi người mỗi kiếp, ai hề giống ai:
Nhơn-nhơn chí-sĩ lắm người,
Khuyên lành ghét dữ cứu đời gian-nan.
Còn như Triết-học mấy trang,
(văn bản không rõ)i trời móc biển tìm đàng cao xa.

Lại như văn-học mấy nhà,
Sông xoi tứ mới lửa lòa văn hay.
Tao-đàn ngang ngửa một vai,
Đọc qua ai cũng khoanh tay cúi đầu.
Còn như những kẻ phong hầu.
Cầm tay ba thước chém đầu năm quân.
Thây non máu suối xa gần,
Vỗ gươm đắc ý rằng thần dụng binh.
Tay không áo vải lênh đênh,
Mượn hơi thời-vận sát sanh một mình.
Nghênh ngang một giấc phù-vinh,
Đẹp lòng nở dạ ấy danh anh hùng.
Trối thây kẻ đói người cùng,
Coi vàng như đất hậu cung trăm ngàn.
Lầu son các tía muôn vàn,
Mâm ăn mấy trượng là tàn-bạo quân.
Một đời nhịn áo nhịn quần,
Cha tiền mẹ bạc lần thần chiều mai.
Biết chi tới nước tới đời,
Coi tiền hơn mạng là người tài nô.
Đá vàng một tiếng hẹn hò,
Ngậm cay nuốt đắng gay go trăm đàng.
Vậy mà giữ vẹn lòng vàng,
Đợi người tri-kỷ là trang đa tình.
Mềm lưng uốn gối tập tành,

Cảm ơn đầu lưỡi, hậu tình ngoài môi.
Bợ trôn quyền quí một đời,
Thay lòng đổi mặt là người nịnh nhơn.
Đời nào phiếu-mẫu làm ơn,
Bơ vơ áo chiếc quần đơn một mình.
Bèo trôi mây giạt lênh đênh,
Ấy người bạc mạng chôn mình rãnh mương.
Kiếp người nghĩ đến mà thương,
Nên hư họa phước một trường hoa lơn[7].
Suy cho thấu hết nguồn cơn,
May là kiếp trước có nhơn duyên gì?
Hay là phú tánh hào ly,
Hay là chí khí có khi sai thù?
Hay là dạy bảo nhiễm nhu?
Hay là tại kẻ giao du chơi bời?
Nếu mà trăm việc ở trời,
Trong vòng vận mạng khôn dời đặng nao.
Vậy thì sống chết chiêm-bao,
Vui nao lại có buồn nao bao giờ!
Đã hay máy tạo u ơ,
Việc mình mình tính đợi chờ mà chi.
Giầu mà gặp vận lưu-ly,
Vì dân trôi máu tên ghi ngàn đời ».
Nói rồi chàng mới trả lời:

« Hán-nho xưa có tên người Mã-thiên.
Anh ta có luận một thiên,
Xưa nay phú quí vân-yên một thời.
Anh-hùng hào-kiệt lắm người.
Ngang trời dọc đất muôn đời bia danh ».
Nàng rằng: « một kiếp phù-sanh,
Sao cho rằng phước? mông mênh lắm mà.
Xin chàng giãi rõ gần xa ».
Chàng liền cặn kẽ thưa qua mấy lời:
« Sử truyền xưa có một người,
Hỏi ông cổ thánh lắm lời cao sâu:
Kiếp người súng sướng ở đâu.
Ngài bèn bảo lại mấy câu rõ ràng:
Có Trinh-lưu-sĩ là chàng,
Cơm canh đạo chánh bạc vàng lẽ ngay.
Ghét tà như thể mắt gai,
Ngày đêm lo lắng giống nòi vẻ vang.
Hết lòng giúp kẻ cô đan,
Cứu người già yếu bần hàn sút sa.
Tiết trinh nực tiếng vợ nhà,
Con lân cháu phụng xuê xoa đủ đều.
Thờ cha lấy thảo làm đầu,
Đá vàng một tiếng bạn bầu kính tin.
Da mồi đầu tuyết đã in,
Thình lình giặc tới cõi biên dậy trần.

Rút gươm chàng quyết liều thân,
Dựng cờ xướng nghĩa giục quân đồng bào.
Sĩ dân bốn phía vui theo,
Đánh tan quân giặc, tiếng reo kinh-thành.
Nước nhà ngợi chữ thái-bình,
Ngậm cười chàng đã bỏ mình gươm dao.
Non sông lụy chảy dều dào,
Kẻ to người nhỏ ồn ào kêu van,
Bia cao để tiếng muôn vàn,
Đình chùa rực rỡ, vái van trung hồn.
Làm trai đứng giữa càn khôn,
Sống vui chết vẻ có oan chi mà ».
Nghe lời nàng mới thở ra,
Rằng: « trai thì vậy, đàn bà thì sao? »
Tình cờ ngó lại án-đầu,
Đồng hồ đếm khắc đã hầu sang tư.
Chàng liền vội vã xin từ:
« Xin nàng ra dạo cho thư lòng sầu.
Hoặc là xướng khúc tiêu tao,
Bàn câu khẳng-khái lãng xao lòng nầy.
Vậy thời trót cả đêm nay,
Tôi xin chầu chực vui vầy hỏi han.
Hiềm vì canh cũng gần tàn,
Dám xin thứ lỗi thưa nàng xin ra.
Thân nàng một gánh nước nhà,

Xin nàng trân trọng ấy là tôi mong ».
Nàng rằng: « xin cám chút lòng,
Đàng xa thăm viếng lòng dòng tới đây.
Xin chàng qua lại chốn nầy,
Mai chiều trò chuyện vui vầy là may ».
Chàng liền từ giã bắt tay,
Qua ga xe lửa về ngay tới nhà.
Tới nơi đã quá canh gà,
Người đi vắng vẻ sương sa lờ mờ.

  1. Tức là Hoa-thạnh-Đốn
  2. Hòa-Thông tức là Watt, người Anh, Tàu dịch là Ngỏa-đặc.
  3. 威 怒 門 士
  4. 慕 留 駒
  5. 空 林 頓
  6. 若 遜
  7. Đoạn mới kể kiếp người đó đến mười hạng.