Gia Long tẩu quốc/Hồi thứ mười ba

   

Quyển III Giá: 0$50


LỊCH-SỮ TIỄU-THUYẾT

GIA-LONG TẨU-QUỐC

Tác-giã: TÂN-DÂN-TỮ, Cholon

XUẤT BẢN NĂM 1930 SAIGON.-IMP. BẢO-TỒN

GIA-LONG TẨU-QUỐC



QUYỂN THỨ BA

HỒI THỨ MƯỜI BA

Đổ-thanh-Nhơn ỹ thế lộng quyền,

Chúa Nguyển-Ánh thi oai trừ nghịch


Từ khi Đổ-thanh-Nhơn lập quân Đông-sơn đánh thắng quân Tây-sơn Nguyển-Nhạc, sau đem binh chinh phạt Cao-man mấy trận, đều đặng dựng cờ đắc thắng, giục trống thành công, bỡi thế nên Đổ-thanh-Nhơn vi cánh càng ngày càng đông, oai quyền càng ngày càng lớn, các tướng tá tâm phúc người nào có tài năng võ dỏng, thì Đổ-thanh-Nhơn đều cho vào một họ của mình, đặng tỏ là người đồng quyến đồng thân, và tăng chức phong quan, để làm kẽ tay chơn nha-trảo.

Vua thấy vậy cũng trọng dụng nhơn tài, rồi phong cho Đỗ-thanh-Nhơn làm chức Thượng-tướng-Công, và phú thát việc binh nhung cho Thanh-Nhơn quãn suất, bởi cớ ấy Đổ-thanh-Nhơn sanh lòng kiêu căng tự đắc, rồi lần lần chẳng thèm kiên nể tới vua, đến đổi việc thủy bộ quan viên, đều muốn chuyên quyền thưởng phạt.

Bữa nọ vua Cao-man sai quan đem lể vật và hai cập bạch tượng rất tốt xuống cống sứ cho Nguyển-vương, khi tới Saigon ghé vào dinh Đổ-thanh-Nhơn ra mắt, và trình các lể vật cống sứ, đặng xin Đổ-thanh-Nhơn bảo tấu cùng vua, Đổ-thanh-Nhơn bèn bão quan sứ Cao-man trỡ về, rồi thâu nhận lễ vật ấy mà làm của riêng mình, chẳng thèm tâu lại cho vua biết, ấy là một sự lạm dụng tới lễ vật của vua.

Chẵng nhửng vậy thôi, cách ít lâu Đỗ-thanh-Nhơn sai tướng tâm phúc qua Biên Hòa, truyền bắt nhơn dân vào rừng đốn vây vở gổ, đốc suất các thợ đóng năm chục chiến-thuyền, và đóng một chiếc tàu lớn, đặt tên là Đông-sơn-chiến-hạm, trên tàu nầy thuyền-lầu phòng buồng, đều chạm trổ sơn son thép vàng, trang sức xem rất hoa mỹ, như một chiếc ngự-thuyền cũa Đức Nguyển-vương kia vậy, trên sân tàu có trí súng đại bác thần-công, sau lái có dựng một cây Huỳnh-Kỳ, đề bốn chữ « Quận-công chiến-hạm ».

Khi chiếc Đông-sơn nầy và năm chục chiến-thuyền kia hoàn-thành, Đỗ-thanh-Nhơn định ngày làm lể khánh hạ, và truyền lịnh cho quan địa-phương Biên-Hòa phãi thâu trong nhơn dân cho đủ số ba ngàn hộc-lương, rồi đem nạp trước ngày khánh thành đặng để dùng làm quân-nhụ[1] cho đạo chiến-thuyền mới lập.

Quan địa-phương nầy vẩn là người phe đảng cũa Đổ-thanh-Nhơn ỷ thế cậy oai, thừa dịp ấy mà ép buộc nhơn dân, chẵng nhửng bức sách hiến nạp quân lương mà thôi, lại còn kiếm chuyện hà lạm bạc tiền, đặng bõ cho đầy túi, bằng ai bất tuân mạng lịnh, thì phải bị khảo kẹp giam còng, và làm nhiều đều rất hà khắc thảm khổ, lại sai một đội quân đi rão các làng các xóm, coi nhà nào lúa nhiều, thì thâu năm bảy chục hộc, một đôi trăm; còn nhà nào có năm mười dạ để chi độ vợ con, thì cũng ép mở ráng dầu, mà tóm thâu sạch hết.

Xưa nay cái thói quân sai-nha, là quân lòng-sâu nọc-rắng độc ác phi thường, mượn thế trộm lịnh quan trên như cáo mượn oai hùm, tới đâu thì nhát khỉ rung cây, kiếm chuyện vu oan cho người, mà làm muôn ngàn sự thương tàn đồng-loại.

Tội nghiệp cho một đám dân nghèo, canh chẳng ngọt, cơm chẳng no, áo không lành, manh không ấm, hể ăn bửa trưa, thì phải chạy lo bửa tối, hột lúa là mạng mạch của đám bần dân, mà lúa không đủ ăn, thì lấy gì mà dưởng nuôi mạng sống, vì vậy mà phải cơ hàng đói khát, thì còn kể gì là pháp luật phãi không, bởi cớ ấy đám dân nghèo nầy, coi nhà giàu nào có lúa đống gạo bồ, thì áp tới xúc ăn, dẩu đánh đuổi củng chẵng đi, ngăn cấm củng không sợ.

Vả lại dân xứ nầy, đều là dân nghèo nàn khổ sỡ, phần bị mùa màng thất phát, không đủ nuôi dưởng vợ con, có đâu dư giã mà hiến nạp cho quân binh nhụ dụng. Vì vậy mà phải thãm khổ cơ hàn, và sanh sự bất bình dấy loạn.

Lúc bấy giờ có quan Huyện lịnh là Đặng-hửn-Tâm, vẫn là người côn bình cang trực, thấy dân bất bình, kẻ dắc vợ người dắc con, quần áo lang thang, cã lũ cã đoàn, kéo nhau tới trước nha môn, quì dưới đất mà khóc than cầu khẩn.

Quan huyện thấy vậy thì hõi rằng:

— Chúng bây nghèo thì mỗi nhà nạp đôi ba hộc lúa, lại không có nữa sao?

— Bẩm quan lớn, chúng tôi nhà đã nghèo, phần thì con đông, phần thì mùa thất, làm mãng năm rồi chỉ dư đặng một đôi giạ, thì đễ nuôi con, mà các cậu sai-nha bão nạp quân lương, thì một đám hài nhi nầy phãi chết đói, thà chúng tôi chịu chết, chớ chúng tôi không nở để cho đứa nhõ, trẽ dại con thơ nầy, mới ở trong lòng mẹ lọt ra, chưa đặng bao lâu mà phải chịu chết đói, thì thãm khổ cho kẽ làm cha mẹ biết là dường nào!

Quan lớn là cha mẹ chúng tôi, cũng như chúng tôi là cha mẹ những đứa thơ bé ấy, xin quan lớn lấy lòng ái truất, mà trần bẩm cùng quan trên, cho chúng tôi miểng nạp quân lương, đặng cứu giúp dân nghèo, cho khõi sự khão kẹp giam còng, và khõ sự cơ hàn đói khát, nếu quan thượng-ty không chịu chuẫn miểng cho bọn cùng dân, thà là chúng tôi chịu chết, chớ chẳng chịu vâng theo lịnh dạy.

Quan huyện thấy dân nghèo kéo đến kêu nài như vậy, thì cãm động lòng thương, bèn trầm tư nghĩ nghị một hồi, rồi day lại nói với chúng dân rằng:

— Chúng dân hãy lui về cứ việc làm ăn, còn việc đó để bổn huyện đích thân lên quan trần bẩm cho, không sao phòng ngại.

Chúng dân nghe quan huyện nói vậy, thì mừng rở cãm ơn, rồi kéo nhau trở về đặng chờ lịnh quan trên phát lạc.

Quan Huyện tức thì làm tờ trần bẩm cho Đỗ-thanh-Nhơn, nhưng Đổ-thanh-Nhơn bất cữ. Cách ít lâu đến kỳ nạp lương, mà không thấy quan huyện giãi nạp.

Đổ-thanh-Nhơn truyền lịnh đòi quan huyện Đặng-hữu Tâm tức tốc lên hầu về việc quân lương trể nãi.

Bữa sau quan huyện đặng tờ, liền sắm sửa khăn áo tuốt lên Trấn-Biên,(Biên-hòa) lúc nầy Đổ-thanh-Nhơn đương ở dưới chiếc thuyền Đông-sơn cùng các tướng thủ hạ.

Quan huyện bắt ghe đưa ra, rồi xin vào ra mắt.

Đỗ-thanh-Nhơn thấy quan huyện bước vào, thì nghiêm sắc mặt và thanh nộ quở rằng:

— Đặng-hữu-Tâm ngươi làm một chức huyện lịnh, sao ngươi chẵng biết thôi thúc nhơn dân nạp lương, đễ cho trễ nãi nhựt kỳ như vậy, thì tội ngươi không còn dung đặng.

Quan huyện đứng cách thong thả, sắc diện có vẻ nghiêm trang rồi bẩm rằng:

— Bẩm Quận-công, tôi làm một chức Hạ-quan, trấn nhậm biên thùy, thay mặt cho nhơn dân bá tánh, đến đây bẩm trần cho Quận-công rõ: từ khi Quận-công hạ lịnh, bão dân hiến nạp quân lương, tôi xem lòng dân cã thãy đều bất bình, và phàn nàn ta thán, vì lê dân xứ nầy đều cơ hàn cùng khô, lúa kém gạo cao, trên chẳng đủ nuôi cha mẹ; dưới chẳng đủ dưởng vợ con, nay Quận-công ra lịnh bão chúng nó phãi hiến nạp quân lương, thì chúng nó lấy gì mà hoạn dưởng thê nhi, chi độ hồ khâu. Bỡi thế mà nhơn dân trong bổn địa, đến khóc lóc kêu nài cùng tôi, vậy nên tôi phãi thay mặt cho nhơn dân, đến đây trần bẫm cùng Quận-công, xin Quận công lấy lòng ái truất, mà biễu tấu cùng vua, chuẩn miễng việc ấy cho dân nhờ, hay là xin lịnh vua đình huởn hạn kỳ, đặng cho chúng nó có đủ ngày giờ mà lo liệu, nếu có lịnh vua thì chúng nó mới chẳng dám kêu nài, bằng không thì tôi e lòng dân bất phục.

Đổ-thanh-Nhơn nghe Huyện lịnh Đặng-hữu-Tâm nói thì trợn mắt nhiếu mày, và vỗ bàn thạnh nộ mà nói rằng:

— Ngươi phải biết rằng: lịnh ta tức là lịnh vua, lịnh vua tức là lịnh ta.[2] ngươi cứ việc y lịnh thi hành, sao ngươi dám trể nải hạn kỳ, mà còn kiếm chuyện kêu nài chuẫn miển, nay ngươi đã cố ý bất tuân, thì ta phãi chém đầu ngươi mà răng he dân chúng mới đặng, nói rồi liền kêu đao phủ-quân bảo đem Đặng-hữu-Tâm trảm thủ.

Đặng-hữu Tâm nghe Đổ-thanh-Nhơn buông lời tự thị nói rằng: lịnh vua tức là lịnh ta, thì biết Đổ-thanh-Nhơn tỏ ý khinh mạng Triều-đình, và xem quốc dân như rơm rát, liền đỏ mặt phừng gan, ngó Đổ-thanh-Nhơn lườm lườm, rồi lấy lời trung ngôn mà mạ nhục và nói:

— Đổ-thanh-Nhơn hởi mi! mi làm một chức quận-công thượng-tướng là một bực cha mẹ của nhơn dân, sao mi chẵng biết bảo hộ dân nghèo, xót thương kẻ khó, nhơn dân là kẻ xích tử của Triều-đình, là cội rể của nhà nước, nếu không có dân thì mi làm quan với ai? ta đã chạy tờ trần bẩm sự cơ hàng cùng khổ của dân, mà mi chẵng có chút lòng thương mi hẵng là một đứa đại-thù đại-hận của chúng dân, và là một đứa tàn tặc thất phu, chớ chẵng phải là nhơn dân phụ mẫu.

Đỏ-thanh-Nhơn, ta tội gì mà mi lại bảo chém ta? ta nói cho mi biết, mi giết đặng cái xát thịt ta, nhưng không khi nào mi giết đặng cái tấm lòng công lý của ta, đầu ta đứt, thân ta chết, nhưng mà lòng cang trực trung thành của ta không bao giờ chết đặng, ta là người hưởng thọ tước lộc cũa nhà vua, thì ta chỉ biết vâng theo mạng lịnh nhà vua, nếu ta có phạm tội, thì Triều-đình được phép xử ta, mi không phép nào dám lấy luật riêng của mi mà xử trảm ta được, ta chẵng phãi là bọn thủ hạ của mi, và cũng chẵng phãi là kẽ hưởng thọ tước lộc của nhà mi, mi chớ quen thói khi quân hiếp chúng, ỹ thế chuyên quyền, ta nói cho mi biết, nếu đầu ta rớt, thì đầu mi cũng rớt, nói tới đây Đổ-thanh-Nhơn hét lên một tiếng, bổng thấy tướng tâm phúc của Đổ-thanh-Nhơn là Đổ-Bản tuốt gươm nhảy tới, hươi một cái, thì đầu Đặng hữu-Tâm đã rớt, rồi truyền quân quăng thây xuống nước.

Thãm thiết thay cho Đặng-hửu Tâm vẫn là người có lòng công bình, cang trực, mến nước thương dân, chẵng thèm đem thói đệ tiện tiểu-nhơn, mà dua mị cúi lòn theo một kẻ lộng quyền hiếp chế, vì vậy mà phãi hy sinh tánh mạng dưới một lưởi đao của đứa táng tận lương tâm, và phãi chôn một khối cang trực trung hồn theo dòng nước chãy.

Lúc bấy giờ nhơn-dân trong địa phương nghe Đặng-hữu-Tâm bị Đổ-thanh-Nhơn giết chết, thì bất bình, rồi cã xứ đều náo động dấy lên, không chịu phục tùng mạng lịnh.

Đổ-thanh-Nhơn liền sai một đạo binh đến dẹp, nhơn-dân thấy quan binh ỹ thế, đều nỗi trận bất bình, rồi kẻ mác người dao kéo nhau ra mà kêu nài kháng cự; quan binh bất kể phãi chẳng, cứ ỹ thế cậy oai, chém giết một hồi, rồi bắt đặng ba chục người dẩn về nạp cho Đỗ-thanh-Nhơn phát lạc.

Đỗ-thanh-Nhơn thấy thì truyền quân trói cã tay chơn, lấy lữa thang đốt cho phồng da cháy thịt mà chết.

Thảm thay cho một đám bình dân nghèo khổ, chĩ lo lam lụ làm ăn, mà bị Đỗ-thanh-Nhơn lấy một thế lực bức sách hoành hành, mà làm sự sát sanh tàn ngược.

Bửa bọ Nguyễn-vương đương ở tư dinh, bàn nghị quốc sự với một ít quan cận thần, bỗng thấy quan Chưởng-cơ là Huỳnh-Thiêm-Lộc, bước vào, xem trạng mạo có vẻ vội vàng hâm hở.

Nguyển-vương day lại ngó Huỳnh-Thiêm-Lộc mà hỏi rằng:

— Quan Chưởng-cơ có việc chi muốn tỏ cùng ta chăng?

— Bẩm[3] chúa thượng có việc bí-mật hạ thần muốn tỏ cho chúa-thượng rõ.

Nguyển-vương nghe nói liền đứng dậy ngó Thiêm-Lộc và bảo rằng:

Quan Chưởng-cơ, ngươi hãy vào Cơ-mật-Viện với ta, nói rồi cả hai đều vội vàng đi tới Cơ-mật-Viện, bước vào đóng cữa lại rồi, Nguyển-vương ngó Thiêm-Lộc mà hỏi rằng:

— Người nói việc bí-mật ấy là việc chi? hảy nói cho ta nghe thữ.

— Bẩm chúa-thượng, trước khi chúa-thượng muốn rỏ việc bí-mật ấy, xin chúa-thượng nói cho Hạ-thần biết rằng: trong Nam-kỳ nầy lúc bây giờ, có một vua hay là hai vua?

Đức Nguyển-Ánh nghe hỏi lấy làm lạ, ngó sửng quan Chưởng cơ Huỳnh-thiêm-Lộc và nói rằng:

Tại Nam-kỳ nầy có một ta là vua đấy thôi, ngươi muốn nói gì ta không hiểu đặng.

Bẩm chúa-thượng, xin lổi cùng chúa-thượng, tôi tưởng trong Nam-kỳ nầy hiện nay đả có hai vau.

Đức Nguyễn-vương nghe nói liền nheo mày trợn mắt, ngó châm chĩ Thiêm-Lộc lấy làm lạ mà hỏi tiếp rằng:

— Ngươi nói tằng tại Nam-kỳ nầy, hiện nay đã có hai vua mà hai vua ấy là ai?

Huỳnh-thiêm-Lộc đứng cách tề chỉnh và đáp rằng:

— Bẩm chúa-thượng, vua thứ nhứt là chúa-thượng đây, cã thãy thần dân ai ai cũng biết, song nay có một vua thứ hai nữa là Đổ-thanh-Nhơn, thì tôi mới biết đây, nên phãi đến tõ cho chúa-thượng rõ.

Đức Nguyễn-vương nghe nói rất rối trí, liền kéo ghế cái rột đứng dậy và hõi rằng:

— Quan chưởng-cơ, sao ngươi gọi Đỗ-thanh-Nhơn là vua thứ hai, là nghĩa lý gì vậy? hãy nói ta nghe.

— Bẩm chúa-thượng, nếu Đổ-thanh-Nhơn chẵng phãi là vua thứ hai, mà sao hắn dám đại ngôn nói với một quan Huyện lịnh kia, câu rằng: « lịnh vua tức là lịnh ta, lịnh ta tức là lịnh vua » như vậy chẵng phải Đổ-thanh-Nhơn là một bực vua nữa sao? và chẵng phải là một người địch thể với chúa-thượng đó sao?

Đưc Nguyễn-vương, nghe nói câu ấy, thì phừng phừng sắc mặt và hỏi rằng:

— Lời ấy Đỗ-thanh Nhơn đã nói tại đâu? và sao nhà ngươi biết đặng?

Huỳnh-thiêm-Lộc liền lấy một cái mật thơ trong áo ra, trao cho Nguyễn-vương và nói rằng:

— Bẩm chúa-thượng, Đỗ-thanh-Nhơn nói câu ấy trong khi làm lễ khánh thành đạo chiến thuyền tại Trấn-Biên, người tâm phúc tôi là Triệu-Hùng có qua dự khán cuộc ấy của Đổ-thanh-Nhơn, thấy vậy nên gởi mật thơ nầy cho tôi hay, đặng bẩm trần lại chúa-thượng rõ.

Đức Nguyễn-vương liền dỡ thơ ra xem, trong thơ đại lược nói như vầy.

« Kính gởi mật thơ nầy cho quan chưởng-cơ Huỳnh-đại-Nhơn rõ, ngày lễ khánh thành đạo chiến thuyền của Đỗ-thanh-Nhơn Quận-công, có quan huyện là Đặng-hữu-Tâm kêu nài xin lịnh vua miểng việc giãi nạp quân lương, Đổ-thanh-Nhơn thạnh nộ và nói rằng: lịnh vua tức là lịnh ta, lịnh ta tức là lịnh vua, rồi truyền đao phủ quân xử trãm quan huyện, vì vậy nên nhơn dân trong địa phương đều bất bình dấy loạn, rồi Đổ-thanh-Nhơn đem binh đánh giết, bắt đặng ba chục lương dân, dụng khổ hình lấy lữa than mà đốt cho phồng da cháy thịt, thật là Đổ-thanh-Nhơn ỷ quyền làm nhiều sự hoành hành bạo ngược, xem Triều-đình như không ai, coi mạng dân như rơm rát, nên hạ thần phải mật thơ cho đại nhơn rỏ biết. »

TRIỆU-HÙNG đốn thủ

Nguyển-vương xem thơ rồi sắc mặt thạnh nộ, và nói: Đổ-thanh-Nhơn dám tự lịnh chuyên quyền vậy sao?

Quan chưởng-cơ Huỳnh-thiêm-Lộc bước tới bẩm rằng:

— Bẩm chúa thượng, Đổ-thanh-Nhơn cậy thế binh cường tướng dỏng mà sanh lòng mạng pháp khi quân, nếu chúa-thượng dung dưởng một kẻ quyền-thần, thì chẵng khác chi nuôi một ghẽ ung độc trong tim gan, ngày kia lớn ra, thì không thuốc nào trị đặng. Nay hạ-thần xem ý Đổ-thanh-Nhơn, đã gấm ghé mong lòng Tháo, Mảng,[4] ắc ngày sau chẵng khõi gây họa cho nước nhà, vậy xin chúa-thượng phải sớm lo ngắc ngọn dứt chồi, nếu để cội lớn vừng to, tàng cao nhánh rậm, chừng ấy dẫu có búa bén rìu hay, cũng chẵng khõi tổn công mệt sức, mà lại e khó nỗi tuyệt hoạn trừ căng, đào cây bứng gốc cho đặng.

Nguyễn-vương nghe quan chưởng-cơ Huỳnh-thiêm-Lộc nghị luận mấy lời, thì nghiêm sắc mặt mà nói rằng:

— Ta chẵng phải nhu nhược như Hiến-đế, hôn mụi như Bình-Đế, thì ta có sợ gì Đổ-thanh-Nhơn sanh lòng Tháo, Mãng. Kế Tôn-thất-Thiện ngoài cửa bước vô, Nguyễn-vương liền đưa cái mật thơ của Triệu-Hùng cho Tôn-thất-Thiện xem.

Tôn-thất-Thiện xem rồi, bẫm rằng:

— Bẩm chúa-thượng, thật Đỗ-thanh-Nhơn nay đã chuyên quyền ỷ thế, đến đổi lương tiền trong kho đều lấy ra dùng về việc riêng của va, không chịu cấp phát cho quân cơ lính tráng trong cung viện.

Đức Nguyễn-vương nghe nói thì lữa giận phừng gan rồi nói rằng:

Ta dòm thấy Đổ-thanh-Nhơn mấy tháng nay, đã lộ ra cái mòi khinh thị ta, vậy để ta dụng một thế lực thủ đoạn cho hắn biết chừng, nói rồi đòi các tướng tâm phúc là Lê-văn-Quân, Tống-phước-Khuông, Tống-phướng-Lương Vỏ-giãng-Triêm đến Cơ-mật-Viện, và bảo các tướng ấy cứ việc thi hành như vầy như vầy......

Các tướng lảnh mạng lui về, Nguyễn-vương liền sai thị vệ đòi quan lễ-bộ thượng-thơ là Nguyển-Nghi, đến và dặn rằng:

— Quan lể-bộ ngươi phải về sắm sửa một tiệc cho long trọng, mời các tướng tâm phúc của Đỗ-thanh-Nhơn đến dự tiệc tại tư dinh cũa ngươi, và tiếp đải các tướng ấy cho tử tế, chờ chừng nào có lịnh ta, thì sẽ bải tiệc.

Quan lể-bộ Nguyển-Nghi vâng lịnh rồi khấu đầu lui ra.

Nguyển-vương liền kêu thị vệ đòi quan chưởng-dinh là Nguyển-huỳnh-Đức và Nguyển-hữu-Thoại vào rồi truyền mật lịnh cho hai người ấy mà nói rằng:

— Hai ngươi phải về sắp đặt các việc cho sẵn sàng, rồi y lịnh thi hành, chẵng nên sơ suất.

Nguyển-huỳnh-Đức và Nguyễn-hữu-Thoại lãnh mang rồi, bái từ lui về, cách ba ngày sau, Nguyển-vương sai quan thị-giảng là Châu-Lâm qua dinh mời Đỗ-thanh-Nhơn định ngày mai phải vào đền đặng bàn nghị quốc sự.

Đặng lịnh, sáng bữa sau Đỗ-thanh-Nhơn sắm sửa y giáp trang hoàn rồi lên ngựa đi với hai mươi quân nhơn thẵng vào thành vua, liền xuống ngựa, để các quân nhơn đứng trước Ngọ môn, bèn đi vòng theo sân rồi bước vào nguyệt-đài, thẳng tới kim-môn, tấn lên Thái-hòa-Điện là chổ vua thường khi triều-ngự, ngó vào đền thì thấy vắng vẽ yêm liềm, chỉ có quan đô-soát với quan lảnh-binh, hai người đương đứng trò chuyện cùng nhau bên cạnh đền.

Đổ-thanh-Nhơn bước tới, quan đô-soát với quan lảnh-binh thấy liền vội vả chạy lại tiếp chào.

Đổ-thanh-Nhơn đáp lể rồi hỏi rằng:

— Hai ông đến đây bao giờ, còn chúa-thượng ở đâu, mà chưa ra triều ngự?

Quan đô-soát nghe hỏi liền đáp rằng:

— Thưa quận-công, chúa-thượng hôm giờ cãm hàn, quới thể bất yên, nên người ở tại hậu dinh, không ra triều ngự, và chúa-thượng có dặn hai tôi ở đây đặng nghinh tiếp quận-công, vậy xin quận-công thẳng vào hậu dinh ra mắt chúa thượng.

Đỗ-thanh-Nhơn liền đi ra khỏi Thái-hòa-Điện, thấy bên hữu một tòa Văn-minh-Điện, bên tả một tòa Vỏ-hiển-Điện, chính giữa có một khoãn rộng để nhiều chậu bông, và một hòn giả sơn cao lên chớn chở, kế thấy cách sân bên kia, chừng trăm thước, có một tòa Trung-ương-Điện, trước sân có thạch trụ lang cang, và để hình kỳ-lân sư-tử.

Khi Đỗ-thanh-Nhơn đi khỏi sân, bước lên chín cấp thạch đầu, rồi vòng theo song ly bước qua tả môn, vào tới Trung-ương-Điện, ngó vô giửa đền, thấy màng bay phưỡng phất, trướng xủ yêm liềm, xem trước ngó sau, mà chẳng thấy vua ra triều ngự.

Đỗ-thanh-Nhơn lấy làm lạ, đứng trước đền ngó xem một hồi, rồi rảo lại đi qua, mà chẳng thấy ai hết, bỗng thấy quan Chưỡng-cơ Nguyễn-hữu-Thoại sau điện bước ra, chào Đổ-thanh-Nhơn và nói:

Thưa quận-công, chúa thượng đương ở hậu-cung, chờ quận-công nghị sự.

Đỗ-thanh-Nhơn hỏi: chúa-thượng khỏe chăng?

— Thưa quận-công, chúa-thượng bị cãm phong sương nên sanh chứng đầu đông,[5] chớ không chi trọng bịnh, nói rồi Nguyển-hửu-Thoại dắc Đỗ-thanh-Nhơn đi tới một sân rộng, hai bên có hai dãy thị-vệ quân-dinh, và một dãy ngự-lâm pháo-thủ, còn bên nam có cất một tòa Cơ-mật-Viện, bên bắc cất một Nguyệt-thanh-Cung, thảy đều rộng rãi nguy nga, cữa tía lầu son, phân biệt đường qua ngả lại rồi Nguyễn-hữu-Thoại đi vòng ra sau.

Khi Đỗ-thanh-Nhơn qua khỏi sân, rồi bước vào hậu điện, thấy trên cửa có để một tấm biểu vàng, đề ba chữ: Cần-chánh-Điện.

Đỗ-thanh-Nhơn liền bước vào, ngó lên long án, củng chẳng thấy vua, thì lấy làm lạ mà tự nghỉ rằng:

Nãy giờ ta đã vào ba điện rồi, chỗ nầy là chỗ hậu điện, sao chúa-thượng ở đâu mà không ra triều ngự? bèn rão lại đi qua một hồi, kiếm coi có tên thị-vệ nào đặng hỏi, kế thấy Nguyển-huỳnh Đức phía sau bước ra tiếp chào.

Đổ-thanh-Nhơn hỏi rằng: chúa-thượng có ngự đây chăng?

Nguyển-huỳnh-Đức đáp rằng:

— Chúa-thượng còn ở hậu-cung, vậy xin Quận-công chờ đây một chút, để tôi vào bẩm cho người hay, rồi sẽ tấn vào ra mắt.

Đổ-thanh-Nhơn gặt đầu, rồi đứng trước ngự đình chờ lịnh, một lát thấy bên cửa đền kéo ra hơn hai mươi đao-phủ quân, đều rút gươm dàn hầu, kế thấy Nguyễn-vương ở trong hậu-cung bước ra, một bên thì Nguyễn-huỳnh-Đức, một bên thì Nguyển-hửu-Thoại và bốn tướng hộ vệ theo sau.

Đổ-thanh-Nhơn thấy Nguyễn-vương ra ngực giữa Kim-quang-điện, bên tả có Nguyển-văn-Thành, bên hữu có Trịnh-hoài-Đức hai bên hộ vệ đứng hầu tề chỉnh khác hơn mọi khi, và xem các tướng sỉ người người đều có vẻ hùng hào oai võ, thình lình nghe trên Trung-ương-điện đánh lên ba tiếng trống, kế thấy hai đội ngự-lâm-quân ở hai bên Trung-ương-điện, kéo vòng ra ngự-đình, giăng ngay hai hàng và rút gươm bồng súng, đứng cách nghiêm chỉnh; Đỗ-thanh-Nhơn rất nên kinh ngạt, và nghĩ thằm rằng: Thế có việc chi quang trọng đây, mà sao lại có hai đội ngự-lâm pháo-thủ dàn hầu củng lạ? Bình nhựt Nguyễn-vương lâm triều nào có quân gia nghiêm nghị như vậy, sao nay lại có quân ngự-lâm dàn hầu tước diện, quân đao phủ chầu chực bên màng, nghĩ rồi liền bước tới yết kiến Nguyễn-vương mà nói rằng:

— Bẫm chúa thượng, hạ thần hôm nay đến viến chúa thượng, xin chúc chúa thượng quới thể bình yên.

Nguyển-vương ngồi cách tề chỉnh oai nghi, rồi nghiêm sắc mặt ngó Đổ-thanh-Nhơn mà hõi rằng:

— Ta nghe nói Đỗ-thanh-Nhơn đã làm tước vương rồi phãi chăng? hãy nói đặng quã nhơn làm lể cung nghinh cho xứng đáng một bực vương hầu thể diện?

Đổ-thanh-Nhơn nghe câu hỏi ấy, thình lình trúng ngay vào tâm, làm cho trái tim nhãy lên một cái rất dử dội, và trán đỗ mồ hôi, nghĩ thầm trong trí rằng: cuốn sách phương lược của mình đã sắp đặt giấu diếm trong lòng, mà sao Nguyễn-vương lại biết được, rồi đứng sững sờ một chút và nói rằng:

— Bẫm chúa thượng, sự ấy hạ thần đâu dám vược phẫm triều đình, mà làm sự nghịch lý.

Nguyển-vương liền vỗ trên long án cái bốp, rồi hai mắt phóng xạ hào quang, lườm lườm ngó ngay vào mặt Đổ-thanh-Nhơn một cách oai khí và nói rằng:

— Ngươi không dám, mà Đỗ-thanh-Nhơn kia dám, nếu ngươi chẵng phãi tước vương sao ngươi dám đại ngôn nói rằng: lịnh vua tức là lịnh ta, lịnh ta tức là lịnh vua, và nếu ngươi không phải tước vương, sao vua Caomman đem lễ vật cống sứ ta, mà ngươi dám nhận lãnh, ngươi không ý ỷ thế lộng quyền, sao ngươi dám tự lịnh chém một quan huyện ở Trấn-Biên, là một vị viên quan của Triều-đình mà chẵng cho ta biết? ngươi lại dụng độc hình sanh sát lương dân, tàn ngược lê thứ, cái sách Tào-Tháo Vương-Mãng của ngươi, ta đã nắm chặt trong tay, không sao chối đặng, cái tội ngươi chuyên quyền tự lịnh, nghịch quốc khi quân, nay đã hiễn hiện ra trước mắt muôn người, không thế gì trốn tránh đâu đặng. Vậy thì ngươi hãy đem một sanh mạng của ngươi mà chuộc cái tội nghịch quốc khi quân ấy đi, nói rồi liền kêu vỏ đao quân một tiếng, tức thì hai bên điện, quân vỏ đao rút gươm áp lại.

Lúc bấy giờ Đỗ-thanh-Nhơn như cọp kia phãi rọ, chim nọ mắc lồng, dẫu có nạnh vút cánh vi, cũng khó bề bay nhảy, liền trợn hai tròng mắt tròn như viên đạn, ngó quân vỏ đao mà nói cách nghiêm nghị rằng:

— Khoan, chúng bây hãy dang ra, ta làm một chức thượng tướng của Triều-đình, dưới tay ta có chiến tướng dư trăm, hùng binh quá vạn. Ta đối với quân Tây-sơn giữa chốn kịch-liệt chiến-trường thiên đao vạn nhẩn, ta còn thị tữ như qui, chẵng hề để vào lòng chút chi gọi rằng sợ hãi.

Vậy chúng bây hãy đứng yên, để ta bẫm cùng chúa-thượng ít lời, nếu thật ta là người hửu tội, thì ta sẽ nạp mình ta giữa chốn pháp trường, chúng bây không cần chạo rạo.

Quân võ-đao, thấy Đổ-thanh-Nhơn nói cách khẳng khái như vậy, thì đứng yên một bên.

Đổ-thanh-Nhơn liền cung tay trước Nguyển-vương và nói rằng: Bẩm chúa-thượng, chúa-thượng buộc tội cho hạ thần rằng: chuyên quyền sanh sát, nghịch quốc khi quân, mà hạ lịnh xử tử Đổ-thanh-Nhơn nầy, thì hạ-thần xin bẫm lại một lời rằng tội ấy chưa đúng công lý.

Nguyển-vương nghe nói thì thạnh nộ hõi rằng:

— Ngươi nói tội ấy chưa đúng công lý à? vậy thì thế nào ngươi mới gọi rằng đúng nhằm công lý, hữ?

— Bẩm chúa-thượng, xin chúa-thượng xét lại cho kẽ hạ thần, vì có người chuyên quyền sanh sát kia nữa, mà chúa-thượng không hề buộc tội, chĩ buộc tội cho Thanh-Nhơn nầy mà thôi, thì sao rằng công lý?

Nguyễn-vương ngó châm chĩ Thanh-Nhơn và hõi rằng:

— Người nào chuyên quyền sanh sát, ngươi hãy nói đi, nói đi.

— Bẫm chúa-thượng, người chuyên quyền sanh sát ấy là người đương ngồi trên long án kia, mà hạ lịnh cho quân vỏ-đao xử tử Đổ-thanh-Nhơn nầy, người ấy tức là chúa-thượng đó? người ấy chính là người chuyên quyền, sanh sát một kẽ phụ quốc công thần là tôi đây, chớ tôi chưa tội chi gọi rằng đáng tội xử tử.

Nguyễn-vương nghe Thanh-Nhơn nói vậy thì cười gằn một tiếng rất gay gắc, tiếng cười nầy nghe chua như dấm, mà bén như dao, và hỏi rằng:

Thanh-Nhơn, ngươi chuyên quyền sanh sát, chém một quan huyện lịnh, giết hại một đám lương dân, và mạng pháp khi quân, mà ngươi còn cượng từ gọi rằng chưa đáng, vậy thì tội chi ngươi mới gọi là đáng tội xử tử?

— « Bẩm chúa-thượng, quan huyện lịnh với một đám nhơn dân kia là kẻ bất tuân mạng lịnh, tôi làm một viên thượng-tướng, lại không quyền pháp mà giết chết quân nghịch ấy sao? vã lại tên huyện lịnh Đặng-hữu-Tâm là người của Triều-đình đặt ra để trị dân giúp nước, nay hắn chẵng vâng lịnh trừng trị nhơn dân, mà lại xúi giục nhơn dân phản đối cùng Hạ-thần, là một tôi phụ quốc của chúa-thượng, thì tức nhiên nó phản đối với chúa-thượng, vậy thì không nên giết nó cho rảnh, còn để làm gì?

« Còn tội đáng xử tử một kẽ đại-thần là tội đồ mưu soán nghịch cùng vua, dãy loạn cang qua trong nước, nếu có bằng cớ rỏ ràng, dẫu cho chúa-thượng muốn dụng nghiêm hình mà tru di tam tộc cũng đáng, song nay Hạ-thần, chẵng phải là kẻ đồ mưu dấy loạn, cũng chẵng phải là kẻ soán nghịch Triều-đình, như Vương-mảng khi xưa, như Tào-Tháo thuở nọ.

« Nay chúa-thượng lại hạ lịnh xử tử Đổ-thanh-Nhơn nầy, về tội sát hại lương dân, khi quân mạng pháp? tôi xin hõi chúa thượng, sao chúa-thượng không suy đi nghĩ lại mà xét cho thằng Đổ-thanh-Nhơn nầy, là thằng đã ra giúp chúa Nguyễn vua Duệ-Tôn là chú ruột của chúa-thượng khi trước, mà đối địch với Nguyễn-Nhạc Tây-sơn mấy trận tại Qui-nhơn, sau vua Duệ-Tôn chạy vào Giađinh nầy, quân Tây-sơn rược theo bắt đặng giết đi. Lúc ấy chúa-thượng chạy ra cù-lao Thổ-Châu, tôi ở Bình-Thuận nghe quân Tây-sơn truy tầm chúa-thượng mà bắt, tôi liền đem binh vào Nam-kỳ cứu giúp chúa-thượng, đánh đổ quân giặc Tây-sơn, giết chết tướng Tây-sơn là Tư-khấu-Oai và thâu phục Saigon lại đặng, rồi tôi đem binh xuống Bếnlức nghinh tiếp chúa-thượng và cung-quyến trở về Saigon, tôn chúa-thượng lên làm Đại Nguyên-soái.

« Ấy vậy chẳng những thằng Đổ-thanh-Nhơn nầy có công nghiệp với tiền vương của chúa-thượng là vua Duệ-Tôn mà thôi; lại cũng có công nghiệp lớn lao nhọc nhằn với chúa-thượng bây giờ đây nữa, chẳng nhửng vậy thôi, sau tôi lại đem binh chinh phạt Chơn-Lạp là nước cao-man, giết Nặc-Vinh tại thành Ô-đông, rồi tôn Hoàng-tử là Nặc-In lên ngôi, và bắt vua Cao-man phải thọ tước xưng thần, phục tùng dưới quyền bão-hộ của chúa-thượng, ấy chẵng phãi là một sự công lao hạn-mã cũa thằng Đổ-thanh-Nhơn nầy sao?

« Kế đó tại Tràvinh quân Cao-man dấy loạn, tôi đem binh dẹp yên quân giặc, rồi bắt đặng tướng Cao-man là Ốc-nha-Suất mà giết chết tại Tràvinh, từ đó đến giờ, quân Cao-man ở Tràvinh không dám dấy động cang qua, đâu đó đều an cư lạc nghiệp.

« Lúc bấy giờ tôi thấy toàn cõi Nam kỳ đả yên, Cao-man đả phục, thế phải có một vị quốc-vương đặng cầm quyền chánh-trị, chiêu nạp nhơn tài, tôi bèn công đồng hội nghị cùng các hàng vỏ-tướng văn-quan, xin tôn chúa-thượng lên ngôi quốc-vương, đặng mở mang bờ cỏi.

« Vậy xin hỏi chúa thượng, thằng Thanh-Nhơn nầy chẳng phải là thằng chinh Nam phạt Bắc, tế khổn phò nguy, cho chúa-thượng đó sao? nay chúa-thượng lại buộc cái tội mạng pháp khi quân, lộng quyền sanh sát, mà hạ lịnh xử tử thằng Thanh-Nhơn nầy, thật tôi lấy làm cãm tạ cái lòng nhơn từ đại độ, cái lượng ân đức hải-hà của chúa-thượng lắm đó.

« Trong thế chúa-thượng ngày nay muốn bắt chước Hán-bái-công khi trước, hể cao điểu tận, lương cung tàng giảo thố lữ, tẩu cẩu phanh, tôi biết chúa-thượng rồi, hể đặng chim rồi thì bẻ ná, đặng cá rồi thì quên nôm; nên ngày nay chúa-thượng lấy cái luật hình xử tử nầy mà ban thưỡng cho tôi đó hê.

« Vậy xin chúa-thượng hảy hỏi lại lương tâm của chúa-thượng mà coi: Đổ-thanh-Nhơn nầy là một tướng phụ quốc công-thần của chúa-thượng ngày nay, chớ chẳng phãi bọn Tào-Tháo, Vương-Mảng của nhà Hán khi trước, đó đâu. Nếu chúa-thượng muốn, thì tôi sẻ cho chúa-thượng cái đầu tôi đây, song tôi xin chúa-thượng một đều là đừng mạ nhục tôi là đồ, Tháo, Mảng. »

Nguyển-vương nghe rồi, nheo mày trợn mắt, nổi trận lôi-đình, vổ trên Long-án một cái và nói rằng:

Ta đả dòm thấy trong khối óc ngươi giấu diếm một con ma chọc trời khuấy nước, trong tim đen ngươi chứa chẫm một lủ quỉ thế-lực quyền-hành, bây giờ tuy còn núp mặt ẩn danh, mà sau đây sẻ hiện hình lố dạng. Cái thói lộng quyền khi chúa đó, là hai tên quân hướng-đạo, để dẩn nẻo đem đường cho kẻ nghịch thần; và củng là hai tướng tiên-phong của quân tặc tử.

Ngày nay ngươi là Đổ-thanh-Nhơn, mà ngày mai ngươi là Tháo, Mảng, ngươi phải biết rằng: ta có hai Đổ-thanh-Nhơn, Đổ-thanh-Nhơn khi trước là người phò vua vực nước, đở vạt nưng thành, giử một lòng trung nghỉa với ta, thì ta kỉnh trọng và cảm ơn; còn Đổ-thanh-Nhơn ngày nay đây là đứa mạng pháp khi quân, lộng quyền nghịch quốc, thì ta không thế gì dung thứ hắn đặng, nói rồi kêu Vỏ-đao-Quân một tiếng. quân Vỏ đao liền áp lại.

Đổ-thanh-Nhơn ngảnh mặt vào đền, thoản qua một cập mắt tự thị ngó chúa Nguyển mà hỏi rằng:

— Vậy thì chúa-thượng chỉ quyết hạ một lịnh xử tử Đổ-thanh-Nhơn nầy mà thôi sao?

— Ta chỉ có một lịnh mà thôi, không bao giờ có hai lịnh đâu mà ngươi phải hỏi.

Đổ-thanh Nhơn liền nhích hai môi, tỏ ra một dấu mỉn cười rất thảm buồn, rồi day lại nói với quân võ đao rằng:

— Chúng bây chẳng cần gì bắt buộc, nói rồi đi chẩm hẩm ra giữa ngự đình, vạch ngực ra, rồi hai tay chống nạnh đứng trơ như một hình đồng, và kêu quân vỏ-đao mà bão rằng: Bây hãy y lịnh thi hành ta đi.

Kế thấy Nguyển-huỳnh-Đức ra đứng trước điện nói lớn rằng:

— Chúa-thượng truyền lịnh cho quan giám-sát, lập tức thi hành, nói vừa dứt lời, bổng nghe trước điện đánh ba tiếng chiên, kế hai đội ngự-lâm kéo tới, thì thấy ba mũi súng của ba tên Ngự-lâm-pháo-thủ, phát ra một lược đùng đùng, bắn vào ngực Đổ-thanh-Nhơn, tức thì thấy một vòi máu nóng trong tiêm vọt ra đỏ điều, và một đường nhiệc khí bay lên ngun ngút.

Đổ-thanh-Nhơn lúc bấy giờ hai mắt ngó vào đền lườm lườm, và đưa chơn bước tới ba bước, rồi mới chịu riu ríu ngã xuống.

Đổ-thanh-Nhơn bị tội xử tử nhằm ngày tháng ba năm Tân-sữu (1781).

Vậy có thi rằng:

Soi gương kiêm cổ hởi nầy ai.
Chớ cậy quyền cao chớ ỷ tài.
Mê tỉnh huỳnh lương trong một giấc.
Cuộc đời vinh nhục chẳng bao dai.

Đổ-thanh-Nhơn chết rồi, đức Nguyển-vương liền truyền cho thị vệ đem thây ra ngoại-thành để nơi hữu dinh sứ quán mà tẩn liệm, rồi hạ một đạo chỉ-dụ bão thị vệ đem qua dinh quan lể bộ Nguyễn-Nghi đặng truyền cho các tướng Đổ-thanh-Nhơn hay biết.

Lúc bấy giờ các tướng của Đổ-thanh-Nhơn đương dự tiệc tại dinh quan lể bộ Nguyển-Nghi, bổng có quân thị-vệ đem chỉ-dụ của vua, Nguyển-Nghi bèn lấy chỉ dụ đọc cho các tướng ấy nghe, trong chĩ dụ đại lược nói như vầy:

« Ta là Nguyễn-vương truyền chĩ dụ cho các tướng rỏ Đổ-thanh-Nhơn có phạm mấy điều đại tội, nghịch quốc khi quân, chuyên quyền sanh sát, vì vậy luật nước không dung, nên phãi bị hành hình tru lục, còn các tướng là người vô cang, nên quả-nhơn đều rộng tình tha thứ. »

Các tướng đương ăn uống chơi bời, bổng nghe Đổ-thanh-Nhơn là chủ tướng, bị vua xử tử, thì cả thảy đều sảng sốt kinh hoàn, liền rùng rùng kéo nhau về dinh, đặng cho các đạo binh hay rằng: chủ tướng đã bị vua xử tử.

Khi về tới dinh thấy các tướng của Nguyển-vương, là Lê-văn-Quân, Tống-phước-Lương, Vỏ-giãn-Triêm và Trương-văn-Bác, đả đem binh đến giữ các dinh trại quân thủy và quân bộ của Đổ-thanh-Nhơn và nói với các tướng của Đổ-thanh-Nhơn rằng:

Chúng ta vâng lịnh chúa-thượng đến đây quản xuất các đạo quân dinh, còn các ngươi xin hãy lui về tư dinh, đặng chờ lịnh vua xử trí.

Các tướng tâm phúc của Đổ thanh-Nhơn thấy vậy đều bất bình, nhưng chẳng biết tính sao, rồi kéo nhau tới dinh cũa Đỗ-thanh-Nhơn báo tin cho vợ Đỗ-thanh-Nhơn là Mai-yến-Ngọc hay.

Lúc bấy giờ Mai-yến-Ngọc đương ở nơi hậu đường, bổng có thế nữ vào báo rằng: có các tướng ở tiền dinh, cầu xin ra mắt.

Mai-yến-Ngọc nghe nói, lật đật bước ra thấy Vỏ-Nhà Đổ-Bãn và chư tướng thì hõi rằng:

— Các tướng-quân đến đây có chuyện chi cẫn cấp chăng?

Đổ-Bản đáp rằng:

— Bẫm phu-nhơn, Đổ-tướng-công đả bị Nguyễn-vương xữ tữ tại Cần-chánh-điện rồi, nên chúng tôi vội vàng về đây báo tin cho phu-nhơn rõ.

Mai-yến-Ngọc nghe báo tin ấy, thì sốt mặt bưng đầu, dường như sét nổ bên tai, trời nghiêng đất sụp, rồi mặt mày thất sắc, rất nên kinh hải mà hõi rằng:

— Phu-tướng ta có tội gì mà lại bị Nguyễn-vương xử tử?

Võ-Nhàn bẫm rằng:

— Bẫm phu-nhơn, khi chúng tôi đương dự tiệc tại dinh quan lễ bộ Nguyển-Nghi, thì có chỉ dụ của Nguyễn-vương nói rằng: Đổ-tướng-công bị tội khi quân nghịch quốc, nên Nguyễn-vương xử tữ tướng công tại giữa Ngự-đình kia rồi.

Mai-yến-Ngọc nghe rồi thì tâm thần rối loạn, bủng rủng tay chơn, mắt đổ hào quang, té xiễu nơi ghế mà bất tỉnh. các thể nử xúm lại kêu đở một hồi, khi Mai-yến-Ngọc tỉnh lại, thì giọt lụy dầm dề, xiết bao là gan xầu ruột đứt, rồi day lại hõi các tướng rằng:

— Nay chồng ta đã bị Nguyễn-vương xử tử như vậy, thì các tướng quân tính liệu thế nào?

— Bẩm phu-nhơn, chúng tôi thấy tướng công bị giết vô cớ như vậy thì cã thảy đều bất bình, quyết về đem binh phản đối, nhưng chẵng dè các đạo binh bộ của tướng-công, đã bị các tướng của Nguyển-vương là Lê-văn-Quân, Tống-phước-Lương đem binh giữ gìn hết cả, nên chúng tôi bây giờ chưa biết toan liệu thế nào.

Mai-yến-Ngọc nghe các tướng nói vậy, thì sững sốt nheo mày mà hõi rằng:

— Các ngươi nói rằng, các dinh trại binh bộ của chồng ta đả bị các tướng của Nguyễn-vương thâu phục hết rồi, còn các đạo binh thủy bây giờ làm sao?

— Bẩm phu-nhơn, các đạo binh thủy lại bị tướng của Nguyễn-vương là Vỏ-giảm-Triêm, Trương-văn-Bác đem binh phòng thủ hết cả.

Mai-yến-Ngọc nghe nói liền rưng rưng nước mắt và nói rằng:

— Nếu vậy bây giờ binh bộ và binh thủy của chồng ta, đã bị Nguyễn-vương thâu đoạt hết rồi, nói tới đây thì rủng liệt tâm thần, ngồi xiễu nơi ghế, hai tay bụm mặt mà khóc một hồi rất thãm thiết ai bi, rồi đứng dậy lấy khăn lau nước mắt và nói với các tướng rằng:

— Các tướng quân ôi! vậy xin các tướng hãy lui về dinh trại, đặng ta vào thành tìm chồng ta mà tẫn liệm thi hài, dẩu Nguyển-vương có nói rằng, ta đồng tội cùng chồng ta mà giết đi, thì ta cũng cam lòng, miễng là ta gặp đặng thi hài của chồng ta, dầu sanh tử thế nào ta cũng liều cho thấy mặt.

Các tướng nghe Mai-yến Ngọc nói vậy, đều động lòng rơi lụy rồi khấu đầu từ giã lui ra.

Mai-yến-Ngọc liền bão quân-nhơn thắng ngựa gát xe, rồi đi với hai tên thể nữ, thẳng tới thành vua, thì trời đã tối, thấy hai tên quân-nhơn đứng nhựt hai bên cửa thành, Mai yến-Ngọc liền bước xuống xe, lại hỏi hai tên quân ấy rằng:

— Hai ngươi có biết tướng-công Đổ-thanh-Nhơn đã bị vua xữ tử, bây giờ thi hai ở đâu không?

Tên quân thấy hõi thì đáp rằng:

— Thưa bà tôi không biết việc ấy. Xin bà qua phía đông-môn mà hỏi thử coi, ở đây chúng tôi không rõ.

Mai-yến-Ngọc nghe tên quân-nhơn nói vậy, liền lật đật trở ra, rồi đi với hai đứa thể nữ, lần qua phía cửa thành đông, lúc bấy giờ trời đã tối rồi, hai bên đường đèo chong leo-lét, cây cỏ lờ-mờ, ngó vào trong thành, thấy mấy trại quân đều lẳng lặng yêm liềm, bổng nghe vẳn-vẳn bên mé thành đông, mấy tiếng trống canh, mấy hồi canh nhịp, thỉnh thoãng lọt vào trong tai, giọng nghe thùng-hùng rắc rắc.

Cái tiếng trống canh, tiếng sanh nhịp ấy, dường như kêu gọi nàng mà thôi thúc rằng: « cữa thành đông-môn ở đấy, nàng hãy trỗi bước cho mau. » Nàng Mai-yến Ngọc nghe tiếng trống ấy rền rỉ chừng nào, thì trong lòng lại càng thêm đau đớn xót xa mà bâng khuân chừng nấy.

Mai-yến-Ngọc vừa đi vừa nghĩ: cái thân phận của chồng, bấy lâu quyền cao tước trọng, phú quí vinh hoa, mà ngày nay phãi chết tức tưởi như vầy, chẳng biết thi hài thất lạc vào đâu, nghĩ tới chừng nào, thì hai tròng thu ba, lại dầm dề hột lụy, rồi day lại nói với hai đứa thể nữ rằng:

— Hai đứa bây hãy vịn giùm lấy ta, đặng đi tới cho mau, kẽo để đêm vắng canh khuya, cửa thành đóng đi, thì biết đâu mà tìm kiếm thi hài chồng ta cho đặng, nói rồi cập tay hai đứa thể nữ lần hồi đi tới.

Đi một hồi, bỗng nghe trong một cái nhà ở dựa mé đường, có người đàn bà đưa em, hát nghe văn vẳn như vầy.

« Cuôc đời dâu biển, biển dâu,
Công danh phú quí phong hầu mà chi ».

Nàng Mai-yến-Ngọc đương lúc ly-sầu biệt-hận, buồn bã vì chồng, thoạt nhiên nghe câu hát nầy, như ai khêu đoạn thãm, ai nhắc cơn sầu, thì xiết bao là ruột tầm khô héo, kế đó lại nghe hát thêm một câu nữa rằng:

« Trách ai bẻ gánh cang-thường,
Để cho phận thiếp giửa đường bơ vơ ».

Trong lúc đêm thanh canh vắng, mà nghe tiếng hát thảnh thót nỉ non như vầy, làm cho khách chung tình nghĩ tới chừng nào, càng thêm ruột héo gan xàu, mày châu mặt ủ.

Mai-yến Ngọc đi với hai thể nữ một hồi nữa, đã tới cửa thành đông, trông lên vọng đài, ngó trước xem sau, thấy hai tên quân đứng nhựt trước cửa, thì bước lại hỏi rằng:

— Ngươi có biết Đổ-tướng-Công bị vua xử tử, bây giờ thi-hài còn để tại đâu không?

Tên quân-nhơn nhìn Mai-yến-Ngọc một hồi rồi hỏi rằng:

— Thưa nàng là ai, mà hỏi Đổ-tướng-Công. Xin tỏ tánh danh cho tôi rõ.

— Ta là Mai-yến-Ngọc là chánh-thất của Đổ-tướng-Công.

Tên quân-nhơn nghe nói thì đáp rằng:

— Bẩm phu-nhơn, thi-hài của Tướng-công, không có trong thành, vua dạy đem để ngoài thành, tại dinh sứ-quán.

— Dinh sứ-quán ở chỗ nào, ngươi hãy chỉ cho ta đi.

— Bẩm phu-nhơn, dinh sứ-quán ở phía hữu thành nầy, xin phu nhơn hảy đi chút nữa thì tới.

Mai-yến-Ngọc nghe rồi vội vàng đi với hai tên thể nữ vừa đi được ít bước, kế gặp hai tên gia-thần chạy lại bẫm rằng:

— Bẫm phu-nhơn nảy giờ chúng tôi đi kiếm phu-nhơn cùng hết, mà chẳng biết phu-nhơn ở đâu, còn thi-hài của Tướng-công bây giờ, còn để tại nhà sứ-quán, vậy xin phu-nhơn đi với chúng tôi lại đó thử coi.

Mai-yến-Ngọc nghe nói liền lật đật đi theo hai tên gia-thần, khi đi tới nhà sứ-quán, thấy một đội ngự lâm-quân, cầm giáo mang gươm, đương đứng nhựt canh trước ngỏ.

Mai yến-Ngọc liền bước tới, kế có một quan thiếu-húy ở trong bước ra, thấy Mai-yến Ngọc thì hỏi rằng:

— Nàng ở đâu mà đêm khuya đến đây, có việc chi xin nói cho biết.

Mai-yến-Ngọc đáp rằng:

— Ta là chánh-thất của Đổ-thanh-Nhơn Tướng-công, nghe chồng ta bị xử tử hình, nên đến tìm thi hài, đặng cho thấy mặt nhau trong cơn tử biệt.

Quan thiếu-húy nghe nói thì đáp rằng:

— Bẫm phu-nhơn, thi-hài của Đổ-tướng-Công còn để tại trong nhà sứ-quán nầy, vậy xin phu-nhơn theo tôi vào trong thì thấy.

Mai-yến-Ngọc với hai tên thể-nữ liền bước theo quan thiếu-húy vào trong, thấy hai bên cửa đều đóng chặc, chỉ có cửa giữa thính đường mở ra mà thôi.

Mai-yến-Ngọc lật đật bước ngay lên thềm ngó vào, thấy màng treo giả dượi, đèn thắp lờ mờ, và thấy một hương án để giửa thính đường, phía trong thì một tấm màng trắng bỏ xuống.

Quan Thiếu-húy lấy tay chỉ vào màng trắng ấy và day lại nói với Mai-yến Ngọc rằng:

— Bẫm phu-nhơn, thi hài của Đổ-tướng-công nằm trong tấm màng nầy, xin phu-nhơn vào đó thì thấy.

Mai-yến-Ngọc lật đật bước lại, hai tay vói tới, vén tấm màng ra, thì thấy Đổ-thanh-Nhơn nằm trên một bàn dài, có lót một tấm khãm xanh, và trên mặt đấp một khăn nhiểu đỏ, trên đầu có chong hai ngọn đèn bạch lạp, đương cháy nhắp nhán lờ mờ, xem ra một cãnh tình rất quạnh hiu thê thãm.

Mai-yến-Ngọc liền chạy lại bên chồng, dỡ khăn đấp mặt ra, thấy Đổ-thanh-Nhơn hai mắt còn trợn lên lườm lườm như sống, và hai môi miếm lại, sắc mặt tỏ ra một vẻ thạnh nộ bất bình.

Mai-yến-Ngọc thấy vậy thì hai tay ôm lấy chồng, rồi quì một bên bàn mà khóc cách bi ai thãm thiết rằng:

Phu-tướng ôi! Phu-tướng trong lúc sanh tiền, lao công hạn mã, đông phạt tây chinh, quyết một lòng vực nước phò vua, bao nài sự xông tên đột pháo, khi thì chống với Tây-sơn Nguyển-Nhạc, lúc thì đánh cùng Chơn-Lạp Caoman, cái công nghiệp phu tướng tế khổn phò nguy, công thành đoạt trại trong mấy năm nay, củng tưỡng là ngày sau được quyền cao lộc trọng, phu quí thê vinh, đặng vợ chồng an hưỡng sự chung đãnh vinh hoa, cùng nhau cho được nhứt tràng cọng lạc.

Nào có dè đâu ngày nay phu tướng lại bị tang xương nát thịt nơi dưới mấy mủi súng vô tình kia, mà chết cách tức tưỡi như vầy, làm cho vợ chồng ta phải gương bể bình rơi, keo tang hồ rã.

Phu-tướng ôi! thiếp nghĩ chừng nào thì càng đứt ruột đau lòng cho vợ chồng ta, đương lúc tình nồng nghĩa nặng, phận đẹp duyên ưa, sum hiệp cùng nhau chưa đặng mấy hồi, chẵng dè ngày nay nước chảy công danh, hoa tàng sự nghiệp, làm cho đôi ta phãi anh én lạc bầy, kẻ còn người mất như vầy, thì dẫu cho ai thiết thạch tâm-trường, mà gặp cái tình cãnh thê thãm nầy, thì cũng gan bầm ruột héo.

Mai-yến-Ngọc than khóc nỉ non một hồi rồi day lại ngó vào mặt Đỗ-thanh-Nhơn, thì thấy trong khóe mắt, chãy ra hai hàng máu đõ, liền lấy khăn chậm đi, rồi khóc và nói tiếp rằng:

— Phu-tướng ôi! ngày nay phu-tướng bị Nguyễn-vương xử tử thình lình như vầy, thế thì cái oan hồn uổng tữ của phu-tướng còn vương vấn một mối ức uất bất bình nơi lòng, nên không hề nhắm mắt lại đặng, nay vợ chồng ta đả thấy mặt nhau rồi, vậy thiếp xin quì xuống bên đây, mà cầu khẫn cùng phu-tướng một đều, là xin cho linh hồn Phu-tướng sanh ký tử qui, bỏ sạch cái kiếp khốn nạn ở trần giang nầy, và xin nhắm mắt lại, đặng xuống chốn tuyền đài, cho yên bề mạng vận.

Phu-tướng ôi! thiếp cũng cầu xin phu-tướng phò hộ cho thiếp thễ tráng thân cường, thì thiếp nhứt nguyện cùng phu tướng một lời rằng: Ngày kia thiếp sẽ hiệp cùng các tướng tâm phúc mà toán kế đồ mưu, đặng trã oán rữa hờn cho phu tướng được yên lòng nơi chín suối.

Mai-yến-Ngọc nói tới đây rồi ngước mặt lên xem chồng, thì thấy hai mắt của Đổ-thanh-Nhơn đã nhắm khít lại.

Kế thấy các tướng tâm phúc Đổ-thanh-Nhơn là Võ-Nhàn, Đổ-Sãng và mấy tướng khác, ngoài cữa bước vô, lại quì một bên thi hài của Đổ-thanh-Nhơn rồi cả thãy đều rưng rưng hàng soái lụy.






Chú thích

  1. Quân nhụ là lương thực vật dụng của quân.
  2. Đổ-thanh-Nhơn nói câu nầy cũng giống như câu của vua Louis thứ 14 bên nước Pháp nói: l'Etat, c'est moi, moi c'est l'état, nghĩa là nhà nước tức là ta, ta tức là nhà nước, ấy cũng là một sự oai quyền chuyên chế.
  3. Nguyễn-vương có ra cho quần thần bảo phải dùng tiếng bẫm mà thôi, không cho dùng tiếng tâu
  4. Tháo, Mảng là Tào-Tháo với Vương-Mảng là hai người lộng quyền soán ngôi đoạt nước trong đời Hán, vua Hiến-đế bị Tào-Tháo chuyên quyền, vua Bình-đế bị Vương-Mảng giết chết.
  5. đầu đông, là chứng nhức đầu