CHƯƠNG THỨ TÁM


Về kỹ-nghệ và việc buôn-bán của người tây


Người Đại-pháp vốn có tính đoàn-thể, lịch-duyệt kể đã mấy mươi thế-kỷ nay, lại tinh-thông về khoa-học cùng là cơ-khí, và có chí kiên-nhẫn, cho nên đã tạo-thành được những công-cuộc rất lớn lao.

Cái công-cuộc thứ nhất của người Đại-pháp đã sáng-lập tại xứ Bắc-kỳ này là những sở tàu vận-tải ở các đường sông. Công-cuộc này phát khởi đã từ năm mươi năm nay rồi, trước khi lập nền Bảo-hộ. Về sau phải gây dựng những xưởng tàu để tu-bổ những tàu nhỏ, cùng là những tàu chiến, và những tàu buôn. Khi lập nền Bảo-hộ tại xứ Bắc-kỳ thì nước Đại-pháp đóng ngay những tàu chở quân-lính, cùng là để vận-tải cho các công-sở, các hãng buôn và các bệnh-viện, v. v. Các nhà thực-tế Đại-pháp thì lập ra những nhà máy cưa chạy bằng hơi nước; những xưởng làm các đồ gỗ và các xưởng thợ mộc. Lại phải luyện-tập người bản-xứ làm cai, làm thợ, dần dần tập những người cai biết cách thầu-khoán những công-việc nhỏ. Ngày nay thì phần nhiều những nhà thầu-khoán là người bản-xứ.

Về sau nữa lại có những công-cuộc này: các ấn-quán; các nhà nấu sà-phòng; các sở nấu dầu; từ khi có cuộc khai khẩn các mỏ-than thì khiến cho đường thực-tế ngày thêm phát đạt. Có nhiều công-nghệ rất là tiến-hành, các nhà tư-bản ở Đại-pháp cũng đem vốn sang để khuếch-trương các nhà-máy cùng là để gây dựng những công-cuộc khác nữa.

Ngày nay ở xứ Bắc-kỳ có nhiều những nhà máy rất quan-trọng, có những máy chạy bằng hơi nước thực lớn.

Có ba hạt mà đường thực-tế là quan trọng hơn cả: Hanoï, Hai-phong, Nam-định.

Ở Haiphong thì có: 1) sở ciment, là một nhà máy lớn nhất trong thế-giới. — 2) nhà máy sợi dệt các thứ vải bằng những sợi do xứ Cao-miên, Ấn-độ và Hoa-kỳ. — 3, — 5) Có ba nhà máy đóng các thứ cơ-khí bằng sắt, chuyên về những cuộc đóng tàu, đúc những rầm sắt, những máy tự-động chạy bằng hơi nước, cùng là đóng tàu. --- 6) Có một nhà máy cơ-khí của một người bản-xứ. — 7, 8, 9) Ba nhà máy của người Trung-hoa. — 10, 11) Hai nhà máy gạo của người Trung-hoa, máy cử-động bằng sức hơi nước. — 12, 13, 14) Có ba nhà máy gạo của người Trung-hoa. — 15) Một nhà máy nước đá, cùng là chế ra những thứ rượu bọt và nước tranh. — 16, 17) Hai nhà máy cưa, cử-động bằng sức hơi nước. — 18) một nhà máy luyện xương tán. — 19) Một nhà máy pha-lê để làm những chai. — 20) Một nhà máy gạch, ngói. — 21) Hai nhà máy luyện than bánh. — 22) Một nhà máy dầu và sà-phòng. — 23) Một nhà máy dầu và các thứ phẩm. — 24) Một nhà máy luyện các chất hóa-học. — 25) Một sở đóng xe ngựa và xe tay. — Một nhà máy chế ra các thứ nước hoa. — 26) Một nhà máy sợi của người khách.

Nhà máy này ở Viétri, là nhà máy thứ nhất trong thế-giới khởi cách làm giấy bằng bột nứa.

Ở Hanoï thì có (1) Một nhà máy diêm. — 2) một nhà máy thuộc da. — 3) Một nhà máy chế ra rượu bia (bière). — 4) một nhà máy chế ra dầu ta. — 5) Một nhà máy thuốc lá. — 6, 7, 8) Ba nhà máy cưa chạy bằng hơi nước hay là điện-khí. — 9) 10) một sở nhuộm. — 11, 12) Hai nhà đúc các đồ xành và xứ. — 13, 14) Hai ấn-quán lớn, có máy in cử-động bằng điện-khí, thì một nhà của người bản-xứ. Một nhà cất rượu thì có thêm máy say gạo, máy làm bột gạo, cùng là rất nhiều những nhà máy nhỏ nữa.

Ở Nam-định thì có nhà máy sợi lớn nhất cõi Đông-pháp, nhà máy này đủ máy làm sợi, máy dệt, máy nhuộm và máy dệt các thứ vải chăn; lại có sở dệt các hàng tơ lớn nhất tại bản-xứ; một sở cất rượu có máy say thóc; một nhà máy gạch và ngói, các máy đều cử-động bằng sức hơi nước.

Ở Hải-dương cũng có những nhà máy lớn như là sở cất rượu và máy say thóc; ở Việt-trì có nhà máy chế ra thứ bột để làm giấy; ở Lang-hit có nhà máy chế ra chất sơn trắng; ở Quảng-yên có nhà máy kẽm, v.v.

Nhà máy giấy ở Đáp-Cầu — Những cối lớn để giã bột giấy.

Về thương-cục của người Tây.

Trên kia có nói rằng các nhà đại-thương Đại-pháp sở dĩ phát-đạt là vì có tính đoàn-thể, trật-tự, là kiên-nhẫn. Ta nên lấy hai việc sau này làm thí-dụ: như là hãng Denis Frères dựng nên ở cõi Đông-pháp đã 65 năm nay rồi; hãng Descours et Cabaud là một hãng sinh-tồn ở Đại-pháp đã tới 170 năm nay. Về cuộc đoàn-thể thì có những cái gương Poinsard và Veyret, Berthet-Charrière. Về cái gương hợp-cổ thì có Đông-pháp thương-mại công-ty (Union commerciale Indo-chinoise), ta thường gọi là sở Gô-đa. Về qui-cách trật-tự thì có cái gương những hãng buôn lập ra đã lâu năm, cách bán hàng, việc kế-toán rất là trật-tự, những hãng đặt làm và những hãng bán buôn hay bán lẻ thì đều rất là cẩn thận.

Các hãng buôn của người Đại-pháp thì có những hàng-hóa ngoại-quốc nhập-cảng lại thu nhặt những sản-vật của bản-xứ để tải sang Đại-pháp hay là các xứ khác.

Các hãng buôn này đều có những người bản-xứ làm công mà không giấu giếm việc gì cả; người nào muốn học tập việc buôn bán, thì mỗi hãng buôn tây tức là một tràng học nghề vậy.

Người nào đã quan-sát về công-cuộc của một hãng buôn thì biết rằng chẳng những là phải có rất nhiều vốn mà thôi, lại phải tinh-thông, lịch-duyệt lắm mới được. Bởi thế sự thí-nghiệm của một người, hay của một đời người cũng chưa lấy gì làm hoàn-toàn vậy.

Nhà máy giấy Đáp-Cầu.
Máy này một đầu thì đổ bột giấy, đầu kia thành ra tấm giấy dài vô cùng.

Về cuộc khai mỏ.

Ở xứ Bắc-kỳ, nhiều núi có mỏ: như là mỏ than và các loài kim-khí. Không mấy nước lại có nhiều mỏ như ở bản-xứ, thế nhưng xưa kia, người bản-xứ không biết lợi-dụng những mỏ ở trong nước. Ngày xưa, người Trung-hoa đem phu và thợ Trung-hoa sang khai những mỏ vàng, những mỏ bạc, mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ thủy-ngân ở bản-xứ; người Đại-pháp đã đi quan-sát khắp trong nước, cho nên tìm thấy những mỏ mà người Trung-hoa đã khai ngày xưa, lại tìm thấy nhiều những mỏ khác, chưa khai-phá bao giờ nữa. Vậy đã đem những cơ-khí tối tân cùng là các nhà kỹ-sư ở Đại-pháp sang để khai mỏ; những phu làm việc ở các mỏ thì cũng tuyển-mộ người bản-xứ. Ở các hạt khai mỏ thì chiêu-tập người làm mà lập thành làng xóm có đủ mọi cách vệ-sinh, lấy cái bản-mệnh của người làm rất là quan-trọng, bởi vì người Bắc-kỳ rất sợ những miền lam-chướng. Các hạt khai-mỏ ngày nay sở dĩ có nhiều người làm là vì không sợ gì lam-chướng nữa. Kể hàng mấy nghìn phu cùng là mấy mươi trăm người cai làm ở các sở mỏ, công-nhật thực cao, lại có nhiều người bản-xứ đã tự khai những mỏ than nho nhỏ nữa.

Mỏ than thực là nhiều. Mỏ than quan trọng nhất thì ở Hongay thuộc về vịnh Hạ-long. Tại hạt này lại có khai mỏ than Kébao, Đông-dang, Daden, Mong-bi, Mao-khê. Bởi hạt này lắm mỏ than cho nên gọi là xứ mỏ than Đông-triều. Thế nhưng lại còn những mỏ than ở Phan-mế, gần Thái-nguyên; ở Tuyên-quang; ở Qui-mong, gần Yên-báy và ở Phủ-nho-quan.

Nhà máy thuốc lá Hanoï — Máy cuốn xì-gà.

Than ở bản-xứ thì nhiều những nhà-máy tiêu-thụ, như là các sở điện-khí ở các thành-phố lớn; các sở xe-lửa, các lò gạch, các nhà máy pha-lê bản-xứ v.v.

Ngoài những mỏ than lại có những mỏ kẽm, là thứ mỏ mà ở bản-xứ có nhiều lắm. Như là những mỏ kẽm ở miền núi Lang-hít (gần tỉnh-lỵ Thái-nguyên); ở miền Tuyên-quang và ở Chodiên (gần Bắc-kạn). — Tại tỉnh Quảng-yên nay đương dựng một nhà máy rất lớn để chế quặng mỏ kẽm, làm thành ra kẽm lá. Nhà máy này sẽ làm cho nghề thợ thiếc ở bản-xứ được mở mang phát đạt hơn bây giờ.

Mỏ thiếc thì khai ở miền Pia-Ouac, là một dặng núi cao ở miền Hà-giang.

Thứ mõ than để làm bút trì cùng là dùng về máy điện-khí, và các nồi đúc v.v. thì khai ở hạt Lao-kay, (tại Lao-kay có nhà máy để chế luyện thứ quặng mỏ này) và ở dặng núi từ Lao-kay đến Yên-báy.

Tại hạt Bắc-kạn thì có cuộc khai mỏ vàng và mỏ bạc.

Tại bản-xứ còn nhiều mỏ nữa, chưa khai được khắp là vì không có đường vận-tải, lại không có phu, có thợ, vả lại hiện nay thời-giá ở thị-trường còn kém lắm, như là những mỏ sắt ở Thái-nguyên và Tuyên-quang, những mỏ đồng, mỏ antimoine và mỏ sợi.

Một thứ mỏ mà hiện nay cuộc khai-khẩn rất thịnh-hành là mỏ xương-tán (phosphate); vì là một thứ chất bón ruộng rất tốt, nhiều những điền-chủ bản-xứ, nhất là ở hạt Vĩnh-yên và Bắc-giang, chỉ vì lợi-dụng xương-tán này mà lúa rất tốt.

Nhà máy rượu, máy say và giã gạo và máy làm bột của Công-Ty rượu Hanoï.