Việt Nam sử lược/Quyển I/Phần III/Chương XII

CHƯƠNG XII

NHÀ HẬU TRẦN

陳 後

( 1407 — 1413 )

  1. Nhà Minh chiếm-giữ đất An-nam
  2. Giản-định-đế
  3. Trận Bồ-cô
  4. Trần quí Khoách
  5. Trương Phụ trở sang An-nam
  6. Hóa-châu thất thủ

1. NHÀ MINH CHIẾM-GIỮ ĐẤT AN-NAM. Nhà Minh không phải có yêu gì nhà Trần mà sang đánh nhà Hồ, chẳng qua là nhân lấy cái cớ nhà Trần mất ngôi mà đem binh sang lấy nước Nam. Lại nhân vì người An-nam ta hay có tính ỷ-lại, có việc gì thì chỉ muốn nhờ người, chứ tự mình không biết kiên-nhẫn, không có cố-gắng mà làm lấy. Một ngày gì nữa mà còn lạ cái lòng hùm-beo của người Tàu, thế mà hễ khi nào trong nước có biến-loạn, lại chạy sang van lạy để rước chúng sang. Khác nào đi rước voi về giày mồ vậy.

Dẫu người Tàu có lòng vị nghĩa mà sang giúp mình nữa thì nghĩ cũng chẳng vẻ-vang gì cái việc đi nhờ người ta, huống chi kỳ-thực thì lúc nào chúng cũng chực đánh lừa mình, như đánh lừa trẻ-con, để bóp cổ mình, thế mà người mình vẫn không biết cái dại, là tại làm sao?

Tại là cái nghĩa dân với nước ta không có mấy người hiểu rõ. Nhà nào làm vua, cho cả nước là của riêng của nhà ấy; hễ ai lấy mất thì đi tìm cách lấy lại, lấy không được thì lại đi nhờ người khác lấy lại cho, chứ không nghĩ đến cái lợi chung trước cái lợi riêng, cái quyền nước trước cái quyền nhà, thế cho nên mình cứ dại mãi, mà vẫn không biết là dại.

Xem như lúc còn nhà Trần, nhà Minh đã có ý lấy đất An-nam, sau nhà Trần mất rồi lại dùng lời nói khéo, và lấy tiếng điếu phạt đem binh sang đánh họ Hồ. Đến khi bắt được cha con Hồ quí Ly rồi, lại bày kế để chiếm giữ đất An-nam: giả treo bảng gọi con cháu họ Trần, rồi bắt quan-lại và kỳ-lão làm tờ khai rằng: Họ Trần không còn ai nữa và đất An-nam vốn là đất Giao-châu ngày trước, nay xin đặt quận huyện như cũ.

Nhà Minh lấy cái cớ giả-dối ấy để chiếm-giữ lấy nước Nam, rồi chia đất ra làm 17 phủ là: Giao-châu, Bắc-giang, Lạng-giang, Lạng-sơn, Tân-an, Kiến-xương, Phong-hóa, Kiến-bình, Trấn-man, Tam-giang, Tuyên-hóa, Thái-nguyên, Thanh-hóa, Nghệ-an, Tân-bình, Thuận-hóa, Thăng-hoa, và 5 châu là: Quảng-oai, Tuyên-hóa, Qui-hóa, Gia-bình, Diễn-châu.

Còn những nơi yếu-hại thì đặt ra 12 vệ để phòng giữ. Lại đặt ra ba ti là: Bố-chính-ti, Án-sát-ti, Chưởng-đô-ti, và cả thảy ở trong nước lập ra 472 nha-môn để cai-trị, sai quan thượng-thư là Hoàng Phúc 黄 福 coi cả Bố-chính-ti và Án-sát-ti; Lữ Nghị 呂 毅 chi Chưởng-đô-ti, Hoàng Trung 黄 中 làm phó.

Vua quan nhà Hồ thì đều phải đem cả về Kim-lăng. Quí Ly về bên Tàu phải giam, rồi sau đày ra làm lính ở Quảng-tây, còn con-cháu và các tướng-sĩ thì được tha cả không phải tội.

Vua nhà Minh lại truyền cho Trương Phụ tìm kiếm những người ẩn-dật ở sơn-lâm, những kẻ có tài có đức, hay văn-học rộng, quen việc, hiểu toán-pháp, nói-năng hoạt-bát cùng những người hiếu-đễ, những người lực-điền mà mặt mũi khôi ngô, hoặc có gân-sức khỏe-mạnh, những người thầy đồ, thầy bói, thầy thuốc v.v. để đưa sang Kim-lăng, ban thưởng cho phẩm-hàm, rồi cho về làm quan phủ, quan châu, hay là quan huyện. Bấy giờ những đồ bôn cạnh tranh nhau mà ra, duy chỉ có vài người như ông Bùi ứng Đẩu 裴 應 斗, ông Lý tử Cấu 李 子 構 biết liêm-sỉ, không chịu ra làm quan với nhà Minh.

Công-việc xếp-đặt đâu vào đấy rồi, Lữ Nghị và Hoàng Phúc ở lại trấn đất Giao-chỉ, còn Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân về Tàu, đưa địa-đồ An-nam về dâng vua nhà Minh.

Bấy giờ tuy rằng nhà Minh đã chiếm-giữ đất An-nam, nhưng con cháu nhà Trần còn có người muốn khôi-phục nghiệp cũ, vả nước ta còn có nhiều người không muốn làm nô-lệ nước Tàu, cho nên nhà Hậu Trần 後 陳 lại hưng-khởi lên được mấy năm nữa.

2. GIẢN-ĐỊNH-ĐẾ (1407-1409). Khi trước Trương Phụ treo bảng gọi con-cháu nhà Trần là ý giả-dối để chực giết hại, cho nên không ai dám ra. Bấy giờ có Giản-định-vương 簡 定 王 tên là Quĩ 頠 con thứ vua Nghệ-tông chạy đến Mô-độ (thuộc làng Yên-mô, huyện Yên-mô, Ninh-bình) gặp Trần triệu Cơ 陳 肇 基đem chúng đi theo, bèn xưng là Giản-định hoàng-đế, để nối nghiệp nhà Trần, đặt niên hiệu là Hưng-khánh 興 慶.

Giản-định khởi nghĩa chống với quân Minh, nhưng vì quân mình là quân mới góp nhặt được, đánh không nổi, phải thua chạy vào Nghệ-an; bấy giờ có Đặng Tất 鄧 悉 là quan nhà Trần, trước đã ra hàng Minh được làm đại tri-châu ở Hóa-châu, nay thấy Giản-định-đế khởi nghĩa, liền giết quan nhà Minh đi, rồi đem quân ra Nghệ-an để giúp việc khôi-phục. Lại ở đất Đông-triều có Trần nguyệt Hồ 陳 月 湖 cũng khởi binh đánh quân nhà Minh, nhưng chẳng được bao lâu mà phải bắt, còn dư đảng chạy vào Nghệ-an theo vua Giản-định. Vì vậy cho nên quân-thế của Giản-định mới mạnh lên. Ông Đặng Tất lại giết được hàng tướng nhà Minh là Phạm thế Căng 范 世 矜 ở cửa Nhật-lệ. Lúc bấy giờ đất An-nam từ Nghệ-an trở vào lại thuộc về nhà Trần.

3. TRẬN BÔ-CÔ. Tháng chạp năm mậu-tý (1408) Giản-định-đế hội tất cả quân Thuận-hóa, Tân-bình, Nghệ-an, Diễn-châu, Thanh-hóa, rồi tiến ra đánh Đông-đô. Quân ra đến Trường sơn (Ninh-bình) thì các quan-thuộc và những kẻ hào-kiệt ở các nơi ra theo nhiều lắm.

Quan nhà Minh đem tin ấy về báo cho Minh-đế biết. Minh-đế sai Mộc Thạnh đem 4 vạn quân ở Vân-nam sang đánh dẹp. Mộc Thạnh cùng với quan đô-chưởng là Lữ Nghị vào đến bến Bô-cô 逋 姑 (thuộc xã Hiếu-cổ, huyện Phong-doanh) thì gặp quân Trần. Hai bên giao-chiến, vua Giản-định tự cầm trống thúc quân, tướng sĩ ai nấy hết sức xung đột, phá tan được quân nhà Minh, chém được Lữ Nghị ở trận tiền và đuổi Mộc Thạnh về đến thành Cổ-lộng (thành nhà Minh xây, bấy giờ ở làng Bình-cách, huyện Ý-yên).

Bấy giờ vua Giản-định muốn thừa thắng đánh tràn ra để lấy lại Đông-quan (tức Đông-đô). Nhưng ông Đặng Tất ngăn lại muốn để đợi quân các lộ về đã, rồi sẽ ra đánh. Từ đó vua tôi không được hòa-thuận, vua Giản-định lại nghe người nói gièm, bắt Đặng Tất và quan tham-mưu là Nguyễn cảnh Chân đem giết đi, thành ra lòng người ai cũng chán-ngán cả, không có lòng giúp rập nữa.

4. TRẦN QUÍ-KHOÁCH (1403-1413). Giặc nước hãy còn, mà vua tôi đã nghi-hoặc nhau, rồi đem giết hại những người có lòng vì nước, thật là tự mình gây nên cái vạ cho mình.

Bấy giờ con ông Đặng Tất là Đặng Dung 鄧 容 và con ông Nguyễn cảnh Chân là Nguyễn cảnh Dị 阮 景 異 thấy thân-phụ bị giết, đều bỏ vua Giản-định, đem quân bản bộ về Thanh-hóa rước vua Quí Khoách 季 擴 vào huyện Chi-la (tức là huyện La-sơn, Hà-tĩnh) rồi tôn lên làm vua, đặt niên-hiệu là Trùng-quang 重 光.

Lúc ấy vua Giản-định đương chống nhau với quân nhà Minh ở thành Ngự-thiên (thuộc huyện Hưng-nhân). Quí-Khoách sai tướng là Nguyễn Súy 阮 帥 ra đánh lẻn bắt đem về Nghệ-an. Quí Khoách tôn Giản-định lên làm Thái-thượng-hoàng để cùng lo việc khôi-phục.

5. TRƯƠNG PHỤ TRỞ SANG AN-NAM. Vua nhà Minh thấy Mộc Thạnh bại binh, lại sai Trương Phụ làm thống-binh, Vương Hữu 王 友 làm phó đem binh sang cứu viện.

Quân nhà Trần bấy giờ chia ra là mấy đạo đi đánh dẹp các châu huyện ở mạn Hải-dương. Giản-định đóng quân ở Hạ-hồng (Ninh-giang), Quí Khoách đóng ở Bình-than.

Khi Trương Phụ sang đến nơi, tiến binh đánh đuổi, Giản-định đem binh thuyền chạy về đến huyện Mỹ-lương (giáp Sơn-tây và phủ Nho-quan) gặp quân Trương Phụ đuổi đến bắt được giải về Kim-lăng.

Giản-định bị bắt rồi, Quí Khoách ở Bình-than sai Đặng Dung đến giữ Hàm-tử-quan (huyện Đông-an, Hưng-yên). Nhưng quân của Đặng Dung thiếu lương, phải bỏ chạy. Quí Khoách thấy quân của Đặng Dung đã thua, liệu thế giữ không nổi, bèn bỏ Bình-than chạy về Nghệ-an.

Trương Phụ thắng trận, đi đến đâu giết hại quân dân, và làm những điều tàn-bạo gớm-ghê như là: xếp người thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy đầu. Còn những người An-nam ai tòng-phục nhà Minh mà giết được nhiều người bản-quốc thì được thưởng cho làm quan. Thật bấy giờ tha hồ cho bọn hung-ác đắc chí!

Năm canh-dần (1410) Trần quí Khoách cùng với bọn Nguyễn cảnh Dị lại đem quân ra đánh quân Minh ở Hồng-châu, được thắng trận, rồi lại ra đóng ở Bình-than. Ở các nơi lại nổi lên đánh giết quân nhà Minh; nhưng chỉ vì quân không có thống nhiếp, hiệu-lệnh bất nhất, cho nên đến khi quân giặc đến đánh, quân nhà Trần lại thua, phải chạy về Nghệ-an.

Trương Phụ một mặt đưa chiếu của vua Minh lấy lời giả nhân-nghĩa mà dụ quan-lại nhân-dân, một mặt thì tiến quân vào đánh Trần quí Khoách.

Tháng tư năm quí-tị (1413) Trương Phụ đưa quân đánh Nghệ-an, quân Quí Khoách bấy giờ mười phần chỉ còn ba bốn, lương-thực lại không có, phải bỏ chạy vào Hóa-châu.

Trước Quí-Khoách đã mấy lần cho người sang Tàu cầu phong, Minh-đế không cho, đem giết sứ-thần đi. Nay Quí Khoách lại sang Nguyễn Biểu 阮 表 ra cầu phong với Trương Phụ. Trương Phụ bắt giữ không cho về. Nguyễn Biểu giận mắng Trương Phụ rằng: « Chúng bay trong bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân-nghĩa đi đánh-dẹp; trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi tìm kế để vơ-vét của-cải, ức-hiếp sinh-dân; chúng bay thật đồ ăn cướp hung-ngược! » Trương Phụ tức giận đem giết đi.

6. HÓA-CHÂU THẤT THỦ. Đến tháng sáu năm quí-tị (1413) quân Trương Phụ vào đến Nghệ-an, quan Thái-phó nhà Hậu Trần là Phan quí Hữu 潘 季 祐 ra hàng, nhưng được mấy hôm thì mất. Trương Phụ cho con Quí Hữu là Liêu 僚 làm tri-phủ Nghệ-an. Phan Liêu muốn tâng công, Quí Khoách có bao nhiêu tướng tá người nào giỏi, người nào dở, quân-số nhiều ít, sơn-xuyên chỗ hiểm, chỗ không thế nào, khai cả cho Trương Phụ biết. Trương Phụ bèn quyết ý vào Hóa-châu, và hội chư tướng lại để bàn kế tiến binh.

Mộc Thạnh nói rằng: « Hóa-châu núi cao bể rộng khó lấy lắm. »

Trương Phụ nhất định vào đánh cho được, nói rằng: « Ta sống cũng ở đất Hóa-châu này, mà chết cũng ở đất Hóa-châu này. Hóa-châu mà không lấy được thì không mặt mũi nào về trông thấy chúa-thượng! » Lập tức truyền cho quân thủy-bộ tiến vào đánh Hóa-châu.

Đến tháng chín, quân Trương Phụ vào đến Thuận-hóa, Nguyễn Súy và Đặng Dung nửa đêm đem quân đến đánh trại Trương Phụ. Đặng Dung đã vào được thuyền của Trương Phụ định để bắt sống lấy nhưng không biết mặt, vì thế Trương Phụ mới nhảy xuống sông lấy cái thuyền con mà chạy thoát được. Bấy giờ quân nhà Trần ít lắm. Trương Phụ thấy vậy đem binh đánh úp lại, bọn Đặng Dung địch không nổi phải bỏ chạy.

Từ khi thua trận ấy rồi, Trần quí Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần quí Khoách, Nguyễn cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên-kinh cả. Đi đến giữa đường, Quí Khoách nhảy xuống bể tự-tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả.

Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung-liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can-lộc, tỉnh Hà-tĩnh.

Ông Đặng Dung có làm bài thơ thuật hoài như sau này, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng:

世 事 悠 悠 奈 老 何
Thế sự du du nại lão hà!
無 窮 天 地 入 酣 歌
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
時 來 屠 釣 成 功 易
Thời lai đồ điếu thành công dị,
事 去 英 雄 飲 恨 多
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa.
致 主 有 懷 扶 地 軸
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
洗 兵 無 路 挽 天 河
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
國 讎 未 復 頭 先 白
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch.
幾 度 龍 泉 帶 月 磨
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma!

Dịch:

Việc đời bối-rối tuổi già vay,
Trời đất vô-cùng một cuộc say.
Bần-tiện gặp thời lên cũng dễ,

Anh-hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

Nhà Hậu-Trần nổi lên toan đường khôi-phục, nhưng hiềm vì nỗi lòng người còn ly-tán, thế lực lại hèn-yếu, cho nên chỉ được 7 năm thì mất.

Trần Triều Thế-Phổ 陳 朝 世 譜

Trần Thừa (không làm vua nhưng truy tôn là Thái-tổ)
陳 承 太 祖
An-sinh-vương Liễu
安 生 王 柳
1. Thái-tông Cảnh
太 宗 煚
Khâm-thiên-vương Nhật-Hiệu
欽 天 王 日皎
Hoài-đức-vương Bà-Liệt
懷 德 王 婆 列
Thụy-bà
瑞 婆
Thiên-thành công-chúa
天 城 公 主
(vợ Hưng-đạo-vương)
Võ-thành-vương Doãn
武 成 王 尹
Hưng-đạo-vương Quốc-Tuấn
興 道 王 國 峻
Thiên-cảm Hoàng-hậu
天 感 皇 后
(vợ Thánh-tông)
Tĩnh quốc-vương Quốc-Khang
靖 國 王 國 康
2. Thánh-tông Hoảng
聖 宗 晃
Chiêu-minh-v Quang-Khải
昭 明 王 光 啟
Chiêu-quốc-v Ích-Tắc
昭 國 王 益 稷
Chiêu-văn-v Nhật-Duật
昭 文 王 日 燏
Thiều-dương công-chúa
韶 陽 公 主
Thụy-bảo công-chúa
瑞 寶 公 主
Hưng-võ-vương Hiến
興 武 王 巘
Hưng-nhượng-vương Tảng
興 讓 王 顙
Hưng-trí-vương Hiện
興 智 王 峴
Khâm-từ Hoàng-hậu
欽 慈 皇 后
(vợ Nhân-tông)
Trần-Kiện
陳 鍵
Thiên-thụy công-chúa
天 瑞 公 主
(vợ Hưng-võ-vương)
3. Nhân-tông Khâm
仁 宗 昑
Tá-thiên-vương Đức-Việp
佐 天 王 德 曄
Thuận-thánh Hoàng-hậu
順 聖 皇 后
(vợ Anh-tông)
4. Anh-tông Thuyên
英 宗 烇
Huệ-võ-vương Quốc-Chân
惠 武 王 國 瑱
Huyền-trân công-chúa
玄 珍 公 主
(lấy Chế-củ vua Chiêm-thành)
5. Minh-tông Mạnh
明 宗 奣
Lệ-thánh Hoàng-hậu
麗 聖 皇 后
(vợ Minh-tông)
6. Hiến-tông Vượng
憲 宗 旺
Cung-túc-vương Dục
恭 肅 王 昱
Cung-tín-vương Trạch
恭 信 王 澤
7. Dụ-tông Hạo
裕 宗 暭
Cung-tĩnh-vương Nguyên-Trạc
恭 静 王 元 晫
8. Nghệ-tông Phủ
藝 宗 暊
9. Duệ-tông Kính
睿 宗 曔
Trang-định-vương Ngạc
莊 定 王 𩖃
Giản-định-vương Quĩ
簡 定 王 頠
11. Thuận-tông Ngung
順 宗 顒
Thiên-huy công-chúa
(vợ Đế Nghiễn)
10. Đế-Hiễn (Phế-đế)
帝 晛
1. Hậu-Trần Giản-định đế
後 陳 簡 定 帝
2. Hậu-Trần Quí-Khoách
後 陳 季 擴
12. Thiếu-đế Án
少 帝

HỌ TRẦN LIÊN LẠC VỚI HỌ HỒ

Minh-từ Hoàng-hậu
明 慈 皇 后
Đôn-từ Hoàng-hậu
惇 慈 皇 后
Ông thân-sinh ra Quí-Ly
(không biết tên là gì)
–Trần Minh-tông–
Trần Nghệ-tông
陳 藝 宗
Trần Duệ-tông
陳 睿 宗
Quí-Ly
季 犛
Trần Thuận-tông
陳 順 宗
Khâm-thánh Hoàng-hậu
欽 聖 皇 后
Trần Thiếu-đế
陳 少 帝