Vịnh Hán Cao Tổ
của Lê Thánh Tông

Vế trái[1] bảy mươi hai nốt ruồi,
Gươm thiêng ba thước tuốt cầm chuôi.
Sục rào núi Trĩ[2] hươu chùn cổ[3],
Đuổi đến sông Ô[4], khỉ ướt đuôi[5].
Cho tước, chẳng quên người chực giỏ[6],
Phong hầu, còn nhớ kẻ cầm muôi[7].
Bốn trăm[8] nghiệp Hán dài lâu bấy!
Quá Lỗ, vì chưng chút đãi buôi[9].

   




Chú thích

  1. Vế trái: Đùi trái
  2. Núi Trĩ: Một địa điểm quan trọng then chốt của nhà Tần
  3. Hươu chùn cổ: "Nhà Tần làm sổng con hươu", "hươu chùn cổ" ý nói nhà Tần thua
  4. Sông Ô: Ô giang
  5. Khỉ ướt đuôi: Hạng Vũ bị Hán Sinh gọi mỉa là "khỉ đội mũ". Sau Hạng Vũ bị Hán diệt, tự vẫn ở Ô Giang
  6. Người chực giỏ: Lưu Bang phong vương cho Hàn Tín, một kẻ nghèo (cầm giỏ đi ăn chực)
  7. Kẻ cầm muôi: Chị dâu của Lưu Bang, dạo trước đã cầm muôi cạo nồi canh để tỏ ý đuổi bạn bè Lưu Bang đến ăn uống tại nhà bà ta. Sau Hán Cao Tổ có phong cho con của bà chị dâu chức "canh diệt hầu" để đay lại chuyện cũ
  8. Bốn trăm: Bốn trăm năm
  9. Đãi buôi: Đãi bôi. Sau khi làm vua, Lưu Bang có qua nước Lỗ, tế Khổng Tử, tỏ ý tôn trọng thánh hiền. Song tác giả nói mỉa rằng đó chẳng qua là việc "đãi bôi"!