Nguyên ủy thơ như thế nào, các tiền nho xét đền thơ, đã bàn đi bàn lại kĩ rồi, không cần phải kể ra đây nữa. Đến đời Hán, lấy bốn chữ, năm chữ làm ra thơ tứ ngôn, ngũ ngôn ; lại còn lối thơ theo đúng thanh luật mà phổ vào đàn sáo, tùy từng xoang điệu, có câu dài câu ngắn, không cứ phải đều nhau, và gọi là thơ nhạc phủ. Thơ thất ngôn phần nhiều hiệp theo vần bằng, làm trúng vào âm luật, gọi là ca, đó cũng là chi nhánh của lối thơ nhạc phủ. Còn những bài phô diễn bình thường, đặt ra nhiều câu, mỗi câu nhiều chữ, hoặc trước mở rộng, sau thu lại, hoặc giống như bài ca gồm cả lối thơ, thì gọi là phú. Đến những bài tụng, tán, châm, minh, cũng là lối phú. Từ đời Ngụy, Tấn trở về sau, lối văn : thi ca, phú lục, từ điệu, càng hay bao nhiêu thì khí lực càng kém bấy nhiêu. Đến hồi thiên đô Giang Tả[1], lại lẫn thêm thuyết hư vô mà có xu thế thấp kém, non yếu. Cũng là thế vận xui nên vậy. Đời Lý Đường[2] khởi lên, thơ ngũ ngôn chia ra cổ thể, cận thể và ngũ ngôn luật, ngũ ngôn bài luật, ngũ ngôn tuyệt cú ; thất ngôn cũng chia ra cổ thể, cận thể, thất ngôn luật, thất ngôn bài luật, thất ngôn tuyệt cú, cùng là lối trường đoản ca hành. Các thể thơ thì có thể tỉnh thí, phủ thí, ứng chế, ứng giáo, thư hoài, tức sự, tặng đáp, phú vịnh và những bài họa vần, bài liên cú. Ấy cái thể tài âm luật của các nhà làm thơ đến thế đã đủ lắm rồi, và cái phép thi học trò từ đó cũng mới lấy thơ làm trọng. Tỉnh thí, phủ thí thì chuyên dùng lối thơ ngũ ngôn bài luật ; ứng chế, ứng giáo thì kiêm cả lối thơ ngũ, thất ngôn bài luật. Tựu trung cũng có bài quan vận là hạn dùng một vần gì đó, hoặc đề vận là lấy một chữ đầu đề mà hạn vần. Còn các bài nhạc phủ thi vận, tụng, tán, châm, minh và các thể phú, thể nào cũng chia ra có thể thức rõ rệt thành chương. Vậy nên học trò thời bấy giờ, người nào cũng cắp hòn châu, chứa ngọc bích, đua tài với đời Tấn Ngụy, rảo bước lên bậc phong tao, thực là thịnh thời không đời nào hơn. Thơ đời Tống cũng có nhiều câu xuất sắc, nhưng phú vịnh thì thiên về lối thô sơ, tỉ hứng thì mờ mịt, không rõ ràng ; so với thơ đời Đường, thì đời Tống không bằng ; thơ đời Đường còn so kịp với ba trăm thiên của Kinh Thi. Người đời Nguyên thì khéo làm từ khúc, nhưng thơ thì ủy mị. Người đời Minh thì chỉ chuộng làm thời văn cho giỏi, thơ thì quá tỉ mỉ, bóng bẩy, ý cũng muốn học theo đời Đường, nhưng sai lạc đi.

Nước ta, thơ đời Lý già dặn, xúc tích[3], thơ đời Trần tinh vi, trong trẻo, đều có sở trường tột bực, cũng như thơ đời Hán, đời Đường bên Trung Hoa. Từ đời họ Hồ trở xuống, đời Đại Bảo[4] trở lên, cũng còn giữ được cái truyền thống của đời Trần, nhưng thể tài khí phách càng ngày càng kém. Từ đời Quang Thuận cho đến đời Diên Thành thì lại học lối thơ đời Tống ; lối thơ đời Lý, đời Trần đến đó là một bước chuyển biến. Thơ đời Lê Trung hưng thì chỉ câu nệ về khuôn phép, xu thế thấp kém, không kể làm gì. Trong khoảng đời Vĩnh Hựu, Cảnh Hưng, các bậc tiền bối danh công có nhiều ông lưu ý về thi luật. Nguyễn Tôn Khuê[5] thực là một tay lãnh tụ về thời ấy ; thứ hai đến Nguyễn Huy Oánh[6] rồi đến Hồ Sĩ Đống[7] cùng nối nhau khởi lên, tự lập thành một nhà thơ có tiếng. Ta lại thường xem thơ của các bậc tiền bối, như thơ của Phúc Khê công[8] thi tinh vi đẹp đẽ, nhưng có phần vụn vặt quá. Lai Thạch công[9] là bậc thanh cao, nhưng vẫn có ý mô phỏng ; thơ của Hoàn Hậu công[10] thì chủ lấy khí phách, không thèm lấy điêu khắc vẽ vời làm khéo. Thi học đến đời ấy đã trung hưng lên được, nhưng so với các thi gia đời Lý, đời Trần thì cũng chưa thể sánh bằng.

Còn như lối thơ trường ốc của các cử tử, thì từ đời Tiền Lê trở lên, tuy chưa bằng được cổ nhân, nhưng cái ý ra đầu bài vẫn còn phảng phất. Đến đời Lê Trung hưng, thi cử chuyên dùng lối thơ thất ngôn luật, có các câu phá đề, nhập đề, thượng trạng hạ trạng (là hai câu tam tứ), thượng luận hạ luận (là hai câu ngũ lục) rồi đến hai câu thượng kết hạ kết ; gieo vần phải áp vận vào câu nhập đề thứ hai, câu nệ gò bó quá, xưa nay không thế bao giờ. Vậy nên những bài thơ cử tử, cẩu thả xu thời ; toàn là thô kệch cả. Thiết tưởng trong khoảng đời Lê hai trăm năm, những bậc tài cao bác học xuất hiện cũng nhiều, chỉ ngặt vì bị hạn chế nên không được mấy bài truyền tụng. Ứng chế Đông các thì dùng lối thơ tràng thiên ngũ ngôn bài luật, bài dài có đến bảy mươi vần, ngắn thì năm mươi hoặc ba mươi vần. Gieo vần phải áp vận vào câu đầu, đầu đề đã khó, vần lại ngặt nghèo, cố bó buộc làm cho khó khăn. Ta coi những đầu đề và vần về thi Hội, thi Hương, lại càng khó. Ta xem sách Cát Xuyên tiệp bút thấy có câu thơ ứng chế mà viết liều rằng

Thời hân phùng chí trị
Thần nguyện thú tam thê[11]

thì ai cũng phải bật cười !

   




Chú thích

  1. Năm 317, nhà Tây Tấn sụp đổ trước sự xâm lăng của các tộc người Hung Nô, phải chạy về Giang Nam, dựng lên triều Đông Tấn (317 - 420)
  2. Các vua nhà Đường (718 - 907) họ Lý, nên cũng gọi là Lý Đường
  3. Nguyên văn bản dịch. Đúng chính tả phải là súc tích
  4. 1440 - 1442, niên hiệu của Lê Thái Tông
  5. Nguyễn Tông Quai (1692 - 1767) hiệu là Thư Hiên, người xã Phúc Khê huyện Ngự Thiên (nay thuộc xã Hiệp Hòa huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình). Ông làm quan Tả Thị lang Bộ Hộ, tước Ngọ Đình hầu và được hai lần cử đi sứ sang nhà Thanh. Về sau, ông bị giáng làm Hàn lâm Thị giảng. Nhiều tài liệu ghi là ông Nguyễn Tông Khuê. Tác phẩm Sứ hoa tùng vịnh, Vịnh sử thi tuyển.
  6. Nguyễn Huy Oánh (1713 - 1789) hiệu Thạc Đình và tự là Thư Hiên, người xã Lai Thạch huyện La Sơn (nay thuộc xã Song Lộc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh). Ông là anh của Nguyễn Quýnh, là cha của Nguyễn Huy Tự. Ông giữ các chức quan, như: Đông các Đại học sĩ, Tả Thị lang Bộ Lại, tước Thạc Lĩnh bá, rồi thăng chức Đô Ngự sử và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Tác phẩm Phụng sứ Yên Kinh tổng ca, Thạc Đình di cảo.
  7. Hồ Sĩ Đống (1739 - 1785) hiệu là Trúc Hiên, Dao Đình ; tự là Long Thủ và Thông Phủ, người xã Hoàn Hậu huyện Quỳnh Lưu (nay thuộc xã Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An). Ông từng giữ các chức quan, như Tả Thị lang Bộ Hộ, Quyền Phủ sự, Đồng Tham tụng, tước Kinh Dương Hầu và được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh. Sau khi mất, ông được tặng Thượng thư Bộ Binh và ban tước Quận công. Ông còn có tên là Hồ Sĩ Đồng. Tác phẩm Hoa trình khiển hứng, Dao Đình thi tập.
  8. Nguyễn Tông Quai
  9. Nguyễn Huy Oánh
  10. Hồ Sĩ Đống
  11. Mừng gặp thời rất thịnh đạt / Muốn lấy đủ ba bà vợ.