Văn tế Phan Châu Trinh  (1926) 
của Phan Bội Châu

Năm 1925, Phan Châu Trinh ở Pháp về Sài Gòn định ra Huế hội kiến với Phan Bội Châu, nhưng chưa kịp ra đi thì đã mất (1926). Trong buổi lễ truy điệu Phan Châu Trinh của nhân dân Huế, Phan Bội Châu làm bài văn tế này. Đương thời, bài văn có tác dụng kích thích lòng yêu nước của nhân dân rất lớn.


Than ôi!
Tuồng thiên diễn mưa Âu gió Mĩ, cuộc nọ kém thua hơn được, ngó non sông nên nhớ bậc tiên tri;
Dấu địa linh con Lạc cháu Hồng, người sao trước có sau không, kinh sấm sét dễ đau lòng hậu bối.
Vẫn biết tinh thần di tạo hóa, sống là còn mà thác cũng như còn;
5Chỉ vì thời thế khuất anh hùng, xưa đã rủi mà nay càng thêm rủi.
Lấy ai đây nối gót nghìn thu,
Vậy ta phải kêu người chín suối.

Nhớ tiên sinh xưa:
Tú dục Nam châu;
10Linh chung Đà hải[1]
Nghiệp thừa gia cung kiếm cũng pha đường;
Nền tác thánh thi thư từng thuộc lối.
Gan to tày bể, sức xông pha nào kể ức muôn người;
Mắt sáng hơn đèn, tài linh lợi từ khi năm bảy tuổi.
15Vận nước gặp cơn dâu bể, đeo vai thân sĩ, còn lòng đâu áo mũ xênh xang;
Thói nhà chăm nghiệp bút nghiên, giấu mặt hào hùng, thì tạm cũng khoa trường theo đuổi.

Song le:
Khí vẫn tranh vanh, chí càng viễn đại.

Tài Mã Ni đang chứa sức hô hào;
20Tuồng Lỗ Dịch quyết ra tay đào thải[2].
Đội tiên phong đâu tá, gió duy tân từ Đông Hải thổi vào;
Gương ngoại quốc kia là, sóng cách mạng bởi Âu châu dồn tới.
Dọc ngang trời đất, rực vẻ văn minh.
Tức tối nước nhà, cam đường hủ bại.
25Cá chậu chim lồng vơ vẩn thế, áng công danh thôi vất lối tầm thường;
Rồng mây cọp gió lạ lùng chi, miền thanh khí thử hô người trung ngoại.
Cậy tân học dặn dò đường tự chủ, Lư Thoa, Mạnh Đức so sánh người xưa;[3]
Mượn Đông du thăm hỏi bạn đồng tâm, Hương Cảng, Hoành Tân, lỏi len đường mới.
Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cường quyền trông gió cũng gai ghê;
30Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khêu đèn thêm rạng chói.

Phỏng khiến:
Trình độ dân ta cao;
Trí thức dân ta giỏi.
Khí dân ta ngày một dồi dào;
35Sức dân ta ngày càng cứng cỏi.
Một tiếng xướng có muôn tiếng họa, thần tự do nên đủng đỉnh về đây;
Bạn người Việt với thầy người Tây, ma chuyên chế dám dùng dằng ở mãi.

Nào hay:
Trời đã éo le,
40Người càng quỉ quái.
Chứa chan máu quốc, nước vẩn vơ hồn;
Xao xác tiếng gà, trời mờ mịt tối.
Trường nô lệ chung quanh là rắn rết, văn cứu thời khen khéo gây oan;
Ổ dã man ngan ngát những hùm bao, miệng ái quốc hóa nên buộc tội.
45Thành Hà Nội ùn ùn mây ác độc, nào kẻ lánh mình, nào người chống thế, chữ âm mưu tô vẽ đủ trăm đường;
Đảo Côn Lôn rực rực lửa oan cừu, thấy người yêu nước, thấy kẻ thương dân, tơ xướng loạn dệt thêu ra một mối.
Sương đơn gió kép, giữa hội mịt mù;
Mưa dập sóng dồn, xót ông chìm nổi.
Thân Dậu Tuất bấy nhiêu năm tân khổ, khi đào cây, khi lượm đá, giữa bể trần gió bụi vẫn thung dung;
50Đặng Hoàng Ngô ba bốn bác hàn huyên, khi uống rượu, khi ngâm thơ, ngoài cửa ngục lầm than mà khảng khái.[4]
Hồi đen may cũng lần lừa;
Lòng đỏ vẫn còn hăng hái.
Quay đầu lại giả ơn tù đảo, tấm thân già còn nặng gánh giang sơn;
Bước chân đi tìm bạn Âu châu, đôi tay trắng quyết phất cờ xã hội.
55Án tái phạm vì lời thông Đức, dạ sắt vàng thêm thử lại thêm bền;
Thư thất điều đón giá như Tây, uy sấm sét chẳng kinh cùng chẳng hãi.
Gương vĩ nhân treo những bao giờ;
Hồn cố quốc mới về năm ngoái.
Trước mặt nào ai hớn hở, thấy ngựa xe luống ngẩn ngơ chiều;
60Bên tai những tiếng kêu van, nghe sưu thuế càng ngao ngán nỗi.
Dưới miệng cọp gửi đàn con đỏ, phúc trùng lai thêm bận dạ tha hương;
Trên quyền người đeo giống da vàng, lòng cảm tử quyết lùa quân hậu đội.
Ước những chuông đều trống nhịp, khắp ba kì cho vang tiếng reo hò;
Mới là anh trước em sau, dắt một lũ để đồng bào gắng gỏi.
65Khéo vô tình trời chẳng chiều người;
Nên bất hạnh mừng mà hóa tủi.
Tiệc hoan nghênh mới đó, não nùng rượu chửa phai mùi;
Hội truy điệu gần đây, thấp thoáng hương đà bén khói.

Anh em ta:
70Đất rẽ đôi đường;
Tình chung một khối.
Gánh tồn vong ai cũng nặng nề;
Nghĩa chung thủy lòng càng bối rối.
Sóng gió một con thuyền chung chạ, mái chèo đương lúc cheo leo;
75Mây mù muôn dặm đất xa khơi, dấu ngựa nhờ ai rong ruổi.
Ngại ngùng thay người ngọc mù sa;
Ngao ngắn nhẽ giọt châu mưa xối.

Thương ôi!
Bể bạc còn trơ;
80Trời xanh khó hỏi.
Nghìn vàng khôn chuộc được anh hào;
Tấc dạ dám thề cùng sông núi.
Trước đã giỏi mà sau thêm giỏi nữa, dấu cộng hòa xin rán sức theo đòi;
Thác còn thiêng thời sống phải thiêng hơn, thang độc lập quyết ra tay vin vói.
85Lời này ông xét cho chăng?
Lòng ấy đã trời soi dọi!

Chú thích sửa

  1. Nguyên hai câu nghĩa là: Vẻ tốt đẹp cõi Nam (Quảng Nam); khí thiêng liêng bể Đà (Đà Nẵng) hun đúc lại.
  2. Mã Ni: Mã Chi Ni (Mazzini) cùng với Gia Lý Ba Đích (Garibaldi) là hai nhà ái quốc có công lớn trong việc thống nhất nước Ý hồi thế kỷ XIX. Lỗ Dịch: Louis XVI, tên vua cuối cùng của nền quân chủ chuyên chế Pháp bị cách mạng tư sản Pháp xử tử năm 1793.
  3. Lư Thoa (Rousseau) - nhà văn và nhà tư tưởng tiến bộ Pháp thế kỷ XVIII. Mạnh Đức (Mạnh Đức Tư Cưu - Montesquieu), nhà văn và nhà tư tưởng Pháp thế kỷ XVIII.
  4. Thân, Dậu, Tuất: 1908, 1909, 1910. Đặng, Hoàng, Ngô: [[w:Đặng Nguyên Cẩn|]], [[w:Huỳnh Thúc Kháng|]], [[w:Ngô Đức Kế|]].