Văn tế Nguyễn Biểu
của Trùng Quang Đế

Than rằng:
Sinh sinh hóa hóa, cơ huyền tạo mờ mờ;
Sắc sắc không không, bụi hồng trần phơi phới.

Bất cộng thù, thiên địa chứng cho;
Vô cùng hận, quỷ thần thề với.

Nhớ thuở tiên sinh, cao dơ mạo trãi[1], chăm chắm ở ngôi đài gián[2], dành làm cột đá để ngăn dòng;
Tới khi tiên sinh xa gác vó câu, hăm hăm chỉ cán cờ mao, bỗng trở gió vàng bèn nên nỗi.

Thói tinh chiên[3] Hồ tặc chỉn hăm[4];
Gan thiết thạch Tô công dễ đổi.

Quan Vân Trường gặp Lữ Mông, dễ sa cơ ấy, mảng thấy chữ "phệ tê hà cập"[5] dạ những ngùi ngùi;
Lưu Huyền Ðức giận Lục Tốn mong giả thù này, nghĩ đến câu "thường đảm[6] bất vong" lòng thêm dội dội.

Sầu kia không lấp cạn dòng;
Thảm nọ dễ xây nên núi.

Lấy chi báo chưng hậu đức, rượu kim tương[7] một lọ, vơi vơi mượn chúc ba tuần;
Lấy chi ủy thửa phương hồn[8], văn dụ tế mấy câu, thẳm thẳm ngõ thông chín suối.

   




Chú thích

  1. Mạo trãi: Mũ ông ngự sử
  2. Đài gián: Quan Ngự sử
  3. Tinh chiên: Con khỉ và con chồn, ý nói hôi tanh
  4. Hăm: tức hăm dọa
  5. Phệ tê hà cập: Ăn năn hối lỗi
  6. Thường đảm: Nếm mật, ý nói khổ tâm mong trả thù
  7. Rượu kim tương: rượu quý
  8. Ủy thửa phương hồn: An ủi hồn thơm của người ấy


 

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.