đóng 6 quan năm tiền; ai không có vật-lực thì phải nộp một nửa, hạn cho 3 năm, thì chiếu lệ thu cả thuế.
Nhà vua lại đặt lệ đánh thuế muối. Cứ mỗi ruộng muối đồng niên phải nộp bằng muối từ 6 phương cho đến 10 phương.
Mỗi phương nộp bằng tiền thì phải từ 3 tiền cho đến 4 tiền 30 đồng.
Còn các thứ thuế mỏ, thuế sản-vật v.v. thì đại-khái cũng theo lệ đời vua Thế-tổ đã định, chứ không thay đổi mấy tí.
15. VIỆC VÕ-BỊ. Khi vua Thánh-tổ lên nối nghiệp làm vua, thì trong nước đã được yên-trị, nhưng ngài vẫn biết việc trị nước cần phải có võ-bị, cho nên thường thường ngài vẫn có dụ truyền bảo các quan phải luyện-tập binh-mã để phòng khi hữu sự.
Ở những nơi hiểm-yếu thì lập đồn-ải, ở các cửa bể và các đảo thì lập pháo đài. Và lại làm tàu đồng, tập thủy-quân để phòng giữ mặt bể.
Binh-chế thì có bộ-binh, thủy-binh, tượng-binh, kỵ-binh và pháo-thủ binh.
Bộ-binh thì có kinh-binh 京 兵 và cơ-binh 奇 兵. Kinh-binh chia ra làm doanh, vệ, đội, hoặc để đóng giữ ở Kinh-thành, hoặc sai đi đóng giữ các tỉnh. Mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội có 50 người, có suất-đội và đội-trưởng cai-quản.
Những binh-khí của mỗi vệ, thì có hai khẩu súng thần-công, 200 khẩu điểu-thương và 21 ngọn cờ.
Cơ-binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng chia ra làm cơ, làm đội. Cơ thì có quản-cơ, mà đội thì có suất-đội cai-quản.
Tượng-quân chia ra thành đội, mỗi đội là 40 con voi. Số voi ở Kinh-thành 150 con, ở Bắc-thành 110 con, ở Gia-định-thành 75 con, ở Quảng-nam 35 con, ở Bình-định 30 con, ở Nghệ-an 21 con, ở Quảng-bình, Quảng-nghĩa, Thanh-hóa mỗi nơi 15 con, Quảng-trị, Phú-yên, Bình-thuận, Ninh-bình mỗi nơi 7 con.