nghĩa, chỉ thi viết và thi tính mà thôi. Lại đào sông Bình-lỗ[1] ở tỉnh Thái-Nguyên để cho tiện đường vận-tải.
Còn ở ngoài, thì vua nước Chiêm-thành là Bí Cai 賁 該 cứ hay sang cướp phá ở đất Hóa-châu. Triều-đình đã mấy phen sai quan vào đánh đuổi, nhưng vẫn không chừa. Đến năm bính-dần (1446) Triều-đình sai Lê Thụ 黎 受, Lê Khả 黎 可 đem quân sang đánh Chiêm-thành lấy được thành Đồ-bàn, bắt được Bí Cai và cả phi tần đem về để ở Đông-kinh, rồi lập người cháu vua Bồ-đề là Mã-kha-qui-Lai lên làm vua.
Năm mậu-thìn (1448) lại có xứ Bồn-man 盆 蠻 xin nội thuộc nước ta, đặt làm châu Qui-hợp 歸 合. Đất Bồn-man phía đông-nam giáp tỉnh Nghệ-an, tỉnh Quảng-bình, phía tây-bắc giáp tỉnh Hưng-hóa, tỉnh Thanh-hóa.
Tuy vậy, nhưng vì bà Thái-hậu hay nghe những lời nói gièm, chém giết các quan cựu-thần như là Lê Khả 黎 可, Lê khắc Phục 黎 克 復, làm cho nhiều người không phục.
Năm quí-dậu (1453), Nhân-tông mới bắt đầu thân chính. Trước hết ngài truy-tặng cho những người công-thần và cấp ruộng quan-điền cho con cháu các ông Lê Sát, Lê Ngân, và Lê khắc Phục.
Lại sai ông Phan phù Tiên 潘 孚 先 làm bộ quốc-sử kể từ vua Thái-tông nhà Trần cho đến khi thuộc nhà Minh, cả thảy là 10 quyển.
Trước các vương-hầu và các quan văn-vũ đều cứ theo phẩm-hàm của mình mà ăn lộc lấy thuế trong 50 hộ hay là 100 hộ. Nay Nhân-tông lại cho thêm tiền tuế bổng nữa.
Vua Nhân-tông có lẽ cũng nên được một ông vua hiền, nhưng chẳng may ngài có người anh là Lạng-sơn-vương Nghi Dân 宜 民, trước đã làm Thái-tử, sau vì người mẹ phải tội cho nên phải bỏ. Đến năm kỷ-mão (1459), Nghi Dân đồng mưu với bọn Lê đắc Ninh 黎 得 寧, Phạm Đồn 范 屯,
- ▲ « Khâm-định Việt-sử » chép rằng sông Bình-lỗ chảy từ Thái-nguyên về đến Phù-lộ, thì có lẽ sông Bình-lỗ là sông Cà-lồ chăng?