Nghĩa là khen công-chúa như đám mây ở trên giời xanh, một giọt tuyết ở trong lò giời, một cành hoa ở trong vườn thượng-uyển, một vầng giăng ở dưới ao dao-trì. Than ôi! đám mây đã tản, giọt tuyết đã tan, cành hoa đã tàn, vầng giăng đã khuyết. Trong khi lâm thời thảng thốt, ở trước mắt đám quan chiêm, mà đọc ngay được như thế, vừa trúng với 4 chữ « nhất », lại vừa đủ ý tứ khóc một vị công-chúa. Cái tài mẫn-tiệp xuất khẩu thành chương ấy thực là một bực thiên-tài.
Văn tiên-sinh đại để nhanh mà tài đều như thế. Tiếc thay, tiên-sinh có một bài phú « Ngọc tỉnh liên »,[1] mà không lưu truyền đến bây giờ.
Cuối đời nhà Trần, lại có ông Chu-văn-An là một nhà đạo-học. Tiên-sinh nhân khi đó có 7 người quyền-thần ỷ thế lộng lẫy, bèn dâng sớ xin chém 7 người đó. Nhà vua không dùng, tiên-sinh bèn về ẩn-cư ở làng Cung-hoàng mà dạy học. Về sau, khi nhà Minh sang đánh nhà Hồ, lại có ông Lê-cảnh-Tuân dâng một bức thư nói đến vạn câu, để xin nhà Minh lập con cháu nhà Trần, bài sớ của Chu tiên-sinh và bức thư này đều có khí trung-nghĩa tràn trụa ở trên bài văn, thành ra hai bài danh văn ở nước ta. Ông Lê-Tung luận sử có câu rằng: « Thất trảm chi sớ, nghĩa động càn khôn, vạn ngôn chi thư, trung quán nhật nguyệt », nghĩa là bài sớ xin chém 7 người, nghĩa-khí động đến giời đất; bức thư vạn câu nói, trung-tâm thấu đến mặt giời mặt giăng.
Đó là kể đại khái văn-chương thời nhà Trần. Kế đến thời nhà Lê, thì văn chương lại càng thịnh lắm. Lúc ban đầu vua Thái-Tổ mới dẹp xong giặc nhà Minh, có một bài « Bình ngô đại cáo » của ông Nguyễn-Trãi soạn ra, để bá cáo cho dân trong nước biết cái công bình định của mình. Trong bài đó kể những tội tàn ác của nhà Minh đối với
- ▲ Ngọc tỉnh liên là cây sen dưới giếng ngọc, vua thấy tiên-sinh xấu xa, toan không cho đỗ trạng-nguyên. Tiên-sinh làm bài này để sánh mình. Vua mới cho đỗ.