Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.


VIỆT THI

người có tiếng hay thơ. Về đời Tự-đức vì có việc biến loạn ở trong cung, ông phải đày vào ở Quảng-nghĩa đến khi quân Pháp vào lấy thành Huế, lập vua Đồng-khánh lên, mới được triệu về kinh. Vua Thành-thái lên ngôi, cử ông làm Phụ-chính.

Phạm như Xương, chưa biết rõ.

Thái duy Thanh, chưa biết rõ.

Nguyễn Khuyến (1835 — 1909). Ông người làng Yên-đỗ, huyện Bình-lục, tỉnh Hà-nam bây giờ. Trước ông tên là Nguyễn văn Thắng, sau đổi là Nguyễn Khuyến, hiệu là Quế-sơn, thi Hương đỗ giải-nguyên, năm sau thi Hội, đỗ hội-nguyên rồi vào thi Đình lại đỗ đình-nguyên, cho nên tục thường gọi là ông Tam nguyên Yên-đỗ. Phải lúc trong nước có biến, ông thôi quan về ở nhà dạy học. Ông là một thi-nhân có tiếng về thời gần đây và vì cảnh-ngộ trong nước cho nên giọng văn của ông thường có vẻ chua-cay và ai-oán.

Chu Mạnh Trinh (1862 — 1905). Ông người làng Phú-thị, huyện Đông-yên, tỉnh Hưng-yên, đỗ tiến-sĩ đời Thành-thái thứ tư (1892) làm quan đến chức Án-sát-xứ, xin về nghỉ. Ông là người tài-tình, hay thơ, giỏi đàn, có để lại tập thơ vịnh Kiều.

Trần Kế Xương (1870 — 1906). Ông người làng Vị-xuyên, huyện Mỹ-lộc, tỉnh Nam-định. Trước tên là Trần Cao-Xương, sau đổi là Tế-Xương, sau lại đổi là Kế-Xương, hiệu là Vị-thành, tự Tử-thịnh. Ông thi đỗ tú-tài năm 1891, nên tục thường gọi là ông Tú Xương. Ông có tài làm thơ quốc-âm, nhưng phần nhiều là thơ khôi-hài và hay có giọng khinh-bạc, không phải lối thơ để làm kiểu-mẫu. Ông thọ có 37 tuổi.

52