ấc, ực |
|
Trên chín bệ, mặt trời gang tấc,
|
Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu.
|
ạm, ợm |
|
Miếng cao-lương phong-lưu nhưng lợm
|
Mùi hoắc-lê thanh-đạm mà ngon.
|
ặn, ẩn |
|
Chìm đáy nước, cá lừ-đừ lặn,
|
Lửng da trời, nhạn ngẩn-ngơ sa.
|
óng, úng |
|
Áng đào-kiểm đâm bông não chúng,
|
Khóe thu-ba, dợn sóng khuynh-thành.
|
ật, ắt |
|
Kia điểu thú là loài vạn vật,
|
Dẫu vô tri cũng bắt đèo-bòng.
|
ật, ứt |
|
Thà mượn thú tiêu-dao cửa Phật,
|
Mối thất tình quyết dứt cho xong.
|
út, uốt |
|
Vẻ vưu-vật trăm chiều chải chuốt,
|
Lòng quân-vương chi-chút trên tay.
|
Mấy điều nên nhớ. — Những điều hệ-trọng nên nhớ trong sự gieo vần quốc-ngữ, là bốn điều sau này:
1. —Trong sự gieo vần quốc-ngữ, có ba âm: a, ă â ghép với một phụ-âm c, m, n, p, t thành một âm ghép, như: ac, ăc, âc, — am, ăm, âm — an, ăn, ân — ap, ăp, âp, — at, ăt, ât, những vần ghép ấy chỉ thông được với nhau khi có cùng một phụ-âm đứng trên. Thí-dụ như: Bát thông được với bắt hay bất, mà không thông được với cắt hay cất, mắt hay mất; — lam thông được với lăm hay lâm, mà không thông được với băm hay bâm, trăm hay trâm; — quan thông được với quăn hay quân, mà không thông được với chăn hay chân, nhăn hay nhân v. v... Đó là cách hiệp vận do âm-điệu điều-hòa mà thành lệ.
2. — Khi có vần ghép bằng hai hay ba chữ nguyên-âm với một phụ-âm đứng cuối, như: iên, uyên, uân,