Trang:Tam quoc - Nguyen An Cu - 1949 - Tap 1.pdf/4

Trang này cần phải được hiệu đính.

— 3 —

ấy, xin vua phải xét. Vua coi sớ than thở một hồi, vừa đứng dậy thay áo, Tào Tiết ở sau lưng rình dòm ngó thấy sớ ấy, ra thuật lại với nội bọn anh em, lần hồi kiếm việc khác mà hại Thới Ung bị đuổi về dân giả.

Trương Nhượng, Triều Trung, Phong Tư, Đoàn Khuê, Tào Tiết, Hầu Lảm, Tiển Thạt, Trình Khoán, Hạ Huy và Quách Thắng, mười người ấy làm một phe với nhau gọi là Thập thường thị; vua tôn kính yêu dùng Trương Nhượng lắm, đến nỗi kêu nó bằng cha. Bởi vậy giềng mối Triều đình ngày càng thêm rối, muôn dân tao xao chòm nhạn, trộm cướp vang dậy như om.

Thuở ấy quận Cự lộc ba anh em họ Trương kia, anh cả tên là Trương Giác, em thứ nhì tên là Trương Bửu, em thứ ba tên là Trương Lương; Trương Giác thi nhiều khoa không đậu. Ngày kia nhơn buồn vào núi tìm lá thuốc hái chơi, gặp một ông già hồng nhan bạch phát; xưng mình tên là Nam hoa lảo tiên, tay cầm gậy lê, kêu Trương Giác vào động mà trao cho ba cuốn sách và dặn rằng: « Sách nầy là Thái bình diệu thuật, ta cho người để làm của báu. Vậy phải lấy lòng tốt mà cứu độ thế gian, nếu người manh động phản tâm, thì thân lâm ác báo ». Trương Giác cúi đầu bái tạ. Ông ấy bèn hóa một trận gió mà biến mất.

Từ khi Trương Giác đặng ba cuốn sách ấy thì học tập cả ngày lan đêm, hiểu thông các phép, sức hay khiễn bùa niệm chú, hú gió kêu mưa. Vừa gặp năm dịch khi thạnh hành, Giác xưng là Đại hiền lương sư, đốt bùa hỏa vào nước cho người ta uống, cứu thiên hạ bịnh sống đặng nhiều, một người đồn ra mười người, đến trăm ngàn muôn người, tiếng vang như sấm. Hể Trương Giác đi đến chổ nào, thì đồ đệ theo học bùa phép càng ngày càng đông, thấy có linh nghiệm chừng nào thì lại đông thêm chừng nấy. Trương Giác coi dèo phép mình hiểu hiện thiên hạ phục tùng thì quên phức lời tiên dặn, bèn sắp dọn trong đám môn đồ phân ra mà đặt làm ba mươi sáu sở, sở nào lớn thì hơn một muôn người, sở nào nhỏ thì chừng ngàn người, mỗi sở có một người Cừ soái để thống quân, còn mình thì xưng là Tướng quân. Trương Giác bèn nói gạt thiên hạ rằng: « Trời xanh đã thác, trời vàng nên lập. Đến năm giáp tí thiên hạ đại lợi ». Lại truyền dạy mỗi nhà đều lấy đất trắng mà viết hai chữ Giáp tí trên cữa cái.

Thuở ấy Thanh châu, U châu, Từ châu, Ký châu, Kính châu, Dương châu, Diện châu và Dự châu, trong tám châu ấy bất kỳ nhà nào, đều bái vị, đề chữ Đại hiền lương sư Trương Giác mà để thờ giữa nhà, kính trọng hơn cha mẹ, Trương Giác sai người tâm phúc tên là Mã nguyên Nghĩa đem vàng bạc đi lể cho Thập thường thị mỗi người mỗi phần, để phòng giúp khi nội ứng, cho sẵn người.

Trương Giác toan mưu với hai em rằng: « Thiên ý nan cầu, nhơn tâm nan dắt. Nay lòng dân đã thuận, cơ hội nên làm lắm. Nếu anh em ta không thừa lúc nầy mà lấy Hớn thì rất uổng. Sách có chữ: Thời hồ bất tái, hành hoặc sữ chi ». Bàn luận vừa rồi nhứt diện sắm khăn vàng làm