Trang:Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.djvu/85

Trang này cần phải được hiệu đính.
— 83 —
  1. Uốn câu sao cho vừa miệng cá.
    Không lẽ làm cho vừa ý mỗi một người.
  2. Uổng xích nhi trực tầm.
    Vạy thước mà ngay tầm. Nghĩa là kế lợi vong nghĩa. Kẻ sĩ quân tử chẳng vì lợi mà bỏ phép hay là làm đều quấy, như phải uổng tầm trực xích, bỏ hết các đều phải thì lại càng xa lánh.
  3. Uống rượu như hũ chìm.
    Mạnh rượu quá.

V

  1. Vạch lá tìm sâu.
    Xét nét tứ đều.
  2. Vải thưa che mắt thánh.
    Làm chuyện dối mắt, che miệng thế gian.
  3. Văn hay chẳng luận đặt dài.
    Nghe qua cũng biết hay dở.
  4. Vắn cổ kêu chẳng thấu trời.
    Oan ức không chỗ kêu. Có câu rằng : Oan nầy còn một vạch trời kêu lên.
  5. Vận nghèo đi tới chỗ mô cũng nghèo.
    Cầm gươm chém khó, khó theo sau.
  6. Vạn sự khỉ đầu nan.
    Muôn việc khởi đầu khó.
  7. Vấn xá cầu điền, nguyên vô đại chí.
    Hỏi nhà hỏi ruộng, vốn không có chí cả. Người có chí có phải tìm việc cao xa.
  8. Vắng chủ nhà, gà bươi bếp.
    Có ý nói về tôi tớ, vắng chủ nhà thì tung hoành làm quấy.
  9. Vàng thật chẳng sợ chi lửa.
    Lòng mình ngay thẳng chẳng phải sợ sự gì.
  10. Vật bất ly thân.
    Vật chẳng lìa mình, người đâu của đó. Có câu rằng : 'Mạng tàng hối đạo, dã dung hồi dâm. Nghĩa là của để bơ thờ, thì giục cho kẻ trộm lấy ; trau hình chuốt dạng, thì làm cớ cho sanh đều tà dâm.
  11. Vật bất tề vật chi tình dã.
    Vật chẳng đều thì là tánh tình tự nhiên nó. Ấy là lời ông Mạnh-tư luận về vật giá có trọng khinh chẳng đồng, mà suy ra các vật tự nhiên cảm âm dương ngũ hàng mà hóa ra, thì chẳng giống vật có tay thầy thợ làm nên.
  12. Vắt chày ra nước.
    Chặt chịa thái quá.