Trang:Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.djvu/73

Trang này cần phải được hiệu đính.
— 71 —
  1. Tay bằng miệng, miệng bằng tay.
    Bặt thiệp, miệng nói tay làm.
  2. Tay không chơn rồi.
    Gia tài chẳng có; công việc làm cũng không. Hãy còn bợ ngợ.
  3. Tay làm hàm nhai.
    Mình làm mình ăn, không cậy sức ai.
  4. Thái quá du bất cập.
    Bổ đồng thì lấy bậc thích trung.
  5. Tham bù chẻ gắp.
    Chỉ nghĩa là tham cho nhiều.
  6. Tham buổi giỗ lổ buổi cày.
    Muốn đặng chuyện nầy phải mất chuyện khác.
  7. Tham đắc vô ỉm.
    Tham lam không nhàm, ấy là xà dục thân tượng, nghĩa là rắn muốn nuốt voi.
  8. Thám nang thủ vật.
    Thăm đãy mà lấy vật : giặc dẽ thắng thướng gọi là lấy đồ bỏ đãy. Lại nói dị như phản chưởng, nghĩa là dễ như trở tay.
  9. Tham thì thâm dầm thì đen.
    Thâm là thâm tổn, câu sau là câu ví, hễ tham thì không khỏi lầm.
  10. Tham vì nết, chẳng hết chi người.
    Quí đức hạnh, không quí người.
  11. Tham vui chịu lận,
    Người ta nói rằng : Cờ gian bạc lận ; các người đánh bạc cũng vì ham vui mà mất tiền
  12. Thận chung truy viễn.
    Cẩn thận việc sau hết, dõi nhớ việc lâu xa. Hiếu thảo kẻ làm con phải nhớ ơn cha nghĩa mẹ, dẫu cha mẹ đã khuất rồi, cũng phải có lòng thành kính.
  13. Thần xuất quỉ một.
    Thần mọc quỉ lặn, ấy là tiếng khen mưu chước rất khôn ngoan.
  14. Thần vong xỉ hàn.
    Môi mất răng lạnh, nói về hai nước giao lân, địa thế tương tiếp như môi với răng, nếu một nước phải mất thì nước kia cũng phải mất theo. Hai nước gần giao hảo gọi là thần xỉ chi quốc, nghĩa là giao không hề bỏ nhau.
  15. Thẳng mục tàu đau lòng gỗ.
    Lời thật mất lòng. Cứ phép thẳng mà làm, sao cho khỏi chích mích.
  16. Tháng năm chưa nằm đã sáng, tháng mười chưa cười đã tối.
    Mùa hạ ngày dài đêm vắn, mùa đông ngày vắn đêm dài.