Trang:Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.djvu/7

Trang này cần phải được hiệu đính.
— 5 —
  1. Ba dãy bảy ngang.
    Hàng hóa, đồ đạc bày ra liễn lúc.
  2. Bá nhơn bá tánh.
    Trăm người trăm tánh ý.
  3. Ba vuông bảy tròn.
    Tiếng khen người đủ nét lịch sự, hay là tuyền vẹn không có tì tích.
  4. Bần cùng sanh đạo tặc.
    Nghèo cực sanh trộm cướp.
  5. Bạn duật tương trì, ngư ông đắc lợi.
    Ngao cò tranh nhau, ông bắt cá được lợi. Tích rằng : ngày kia con ngao lên bờ hé vỏ ra hóng mát, con cò đi ăn thấy ngao bày ruột, thì mổ mà ăn, chẳng dè con ngao khép vỏ lại, kẹp lấy mỏ con cò giựt không ra. Cò rằng nay không mưa mai không mưa, ắt là ngao phải chết. Ngao rằng nay không ra mai không ra, ắt là cò phải chết. Ông chài thấy chuyện cớ trêu, thì chụp mà bắt cả hai.
  6. Bang môn lộng phủ.
    Giỡn búa nhà Bang, nghĩa là không biết bổn phận, ông Lổ bang là thầy dạy các nghề nghiệp.
  7. Bằng hữu chỉ ư tín.
    Nghĩa bằng hữu ở tại đều tín thành, không tín thành thì không thiệt là bằng hữu
  8. Bánh sáp đi, bánh chì lại.
    Thói mọi ưa dùng chì thiết đồ mềm, không quí vàng bạc. Kẻ chợ đổi chác với nó, phải lấy thăng bằng, nó một bánh sáp mình một bánh chì, nghĩa là, phải cho bằng nhau ; bây giờ ơn nghĩa qua lại với nhau thì hay nói vân vân.
  9. Bạo đầu thì dại, bạo dái thì khôn.
    Con người phải cho dè dặt, chớ khá nhẹ dạ, hốp tốp. Bạo đầu là táo bạo lúc ban đầu.
  10. Bạo phát bạo tàn.
    Nói về thì vận, hễ phát đạt vội, thì tàn bại cũng vội.
  11. Bảo tân cứu hoả.
    Ôm củi mà chữa lửa : cứu bịnh giải hòa chẳng dùng thuốc hay, lời phải, lại dụng phương nghịch lời ngang, thì cũng như làm cho lửa cháy thêm.
  12. Bát bể, đánh con sao lành :
    Nghĩa là không lẽ tiếc cái bát bể hơn con. Xưa có một người mua một cái bình, cầm đi đàng, rủi bình rơi xuống, bể đi, người ấy đi xuôi một bề ; người ta hỏi sao bình bể không ngó lại, người ấy rằng bể rồi thì thôi, dầu tiếc cũng vô ích.