Trang:Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.djvu/68

Trang này cần phải được hiệu đính.
— 66 —
  1. Rế rách đỡ nóng tay.
    Xấu tốt đều có việc dùng.
  2. Rẻ tiền mặt, mắt tiền chịu.
    Ai nấy biết mua chịu thì mắt, song nhác trả tiền mặt thì lấy hai giá làm bằng nhau.
  3. Rít nhiều chân.
    Hiểu nghĩa là có nhiều người giúp đỡ. Bá khước chi trùng tử nhi bất cương. Con trùng trăm chân có chết không phải ngửa nghiêng.
  4. Rổi chạy nói rang cũng chạy.
    Bôn chôn thái quá.
  5. Rót nước không chừa cặn.
    Đổ rốc ra hết, thường hiểu về lời nói, chỉ nghĩa là nói quá thế hoặc nhiếc mắng không sót đều, hết nước hết cái.
  6. Rung cây nhát khỉ.
    Nhát nhau mà không làm chi nhau đặng, ấy gọi là dọa hơi dọa hẩm.
  7. Rừng nhu biển thánh khôn dò, bé mà chẳng học, lớn mò sao ra.
    Chữ nho như rừng rậm, đạo thánh thẳm sâu như biển, phải gắng học mới nên con người.
  8. Ruột bỏ ra da bỏ vào.
    Coi người dâng hơn bà con.
  9. Ruột cắt ruột không đành.
    Nguyên một câu có hai vế rằng : tay phân tay bao nỡ, ruột cắt ruột sao đành. Nghĩa tay chơn không lẽ dứt, tình cốt nhục chẳng nõ lìa. Người ta hay nói rằng : bà con chém nhau đàng sống, không chém nhau đàng lưỡi, nếu dứt tình hại nhau thì rằng : tay mặt chặt tay trái.
  10. Rượu chẳng uống, uống thì say ; bạc chẳng đánh, đánh thì thua.
    Rượu trà hay làm cho con người loạn tâm tánh, cờ bạc hay làm cho con người nát hại cữa nhà, ấy là tiếng khuyên người đời chớ lấy làm cuộc chơi.
  11. Rượu vào lời ra.
    Rượu vào cuồng tâm bắt nói quấy.

S

  1. Sa đâu âm đó.
    Sa mê chẳng nghĩ sự gì.