Trang:Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.djvu/54

Trang này cần phải được hiệu đính.
— 52 —
  1. Ngọc lành có vít.
    Hiểu là người tốt có tì, song tì ấy cũng chẳng làm cho mất tốt.
  2. Ngọc thạch cu phần.
    Đá, ngọc đều thiêu. Hiểu nghĩa là : lửa giặc chẳng phân biệt người ngay gian, tốt xấu. Như người tốt ở lộn cùng kẻ xấu, đến lúc hổn độn, đều phải hại chung.
  3. Ngoe ngoảy như cua gãy càng.
    Làm bộ ngoe ngoảy mà khó coi.
  4. Ngồi thúng khôn bề cất thúng.
    Việc mình khó xử.
  5. Ngôn dực trường phi.
    Lời nói có cánh bay dài. Có câu rằng : Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn ba ngày đàng.
  6. Ngôn quá kì thật.
    Lời nói quá sự thật.
  7. Ngọn rau tất đất.
    Một ngọn rau nhỏ mọn, một tấc đất hẹp hòi, hễ ăn đặng, ở đặng, thì chẳng nên quên ơn kẻ làm chủ. Nói về ơn vua nghĩa chúa.
  8. Ngôn tất hữu trúng.
    Nói ắt có trúng. Một lời nói ra, thì biết là quân tử, tiểu nhơn ; cho nên lời nói phải cho nhằm, hay là phải trung chánh.
  9. Ngôn thiểu tri đa.
    Nói ít biết nhiều. Chẳng phải nhiều lời nói.
  10. Ngọt mật chết ruồi.
    Dịu ngọt, khôn khéo lời nói thì người ta phải mắc.
  11. Ngư mục hổn châu.
    Con mắt cá lộn với hột châu. — Nghĩa là chẳng phân biệt chơn giã, Con mắt là ngọc thì phải phân tốt xấu.
  12. Ngư thủy nhứt đoàn.
    Cá nước một đoàn. Nghĩa là sum hiệp, đồng hội hiệp vui chơi thì là Hồ, Việt nhứt gia : Đời Đàng vua Thái tông bắt cả người Hồ người Việt; người Hồ thì múa, người Việt thì làm thơ, làm ra cuộc vui chơi.
  13. Ngựa chạy đàng dài.
    Thường hiểu về lời nói. Chỉ nghĩa là không đem lời nói vào tai, hay là tâm bất tại, chẳng nhớ lời dặn bảo hoặc nghe rồi lại quên.
  14. Ngựa qua cữa sổ.
    Hiểu nghĩa là ngày giờ chóng kíp như tên bay như thỏ chạy. Nguyên câu chữ là : Bạch cu quá khích.
  15. Ngựa quen đàng cũ.
    Quen tánh ý ; chẳng chừa thói cũ.
  16. Người có tiền dể đứa tay không.
    Lấy tiền bạc làm hơn.