Trang:Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.djvu/50

Trang này cần phải được hiệu đính.
— 48 —
  1. Máu đâu trâu đó.
    Thói xưa hay bắt vạ bằng trâu thiệt, heo thiệt hay là lấy giá trâu heo mà định tội : một con trâu trị giá năm quan, một con heo trị giá ba quan. Hễ đánh nhau tới chảy máu thì là vạ trâu.
  2. Mẹ gà con vịt chít chiu, mấy đời mẹ ghẻ nưng niu con chồng.
    Sự thế bảng lảng khó thương.
  3. Mèo khen mèo dài đuôi.
    Mình lại khen mình.
  4. Mèo quào không xể vách đất.
    Chẳng chi đã nao núng.
  5. Mèo thấy mỡ.
    Thèm muốn quá. Thấy sắc mà ham cũng là mèo thấy mỡ.
  6. Miá sâu có đốt, nhà dột có nơi.
    Hư có chỗ, quấy có người.
  7. Miệng hùm, gan sứa.
    Nói lớn lối mà nhát.
  8. Miệng lằn lưỡi mối.
    Lời nói độc hiểm,
  9. Mình ở lổ, cổ đeo hoa.
    Không biết xấu tốt.
  10. Mình ốc chẳng rửa.
    Không xử mình trước.
  11. Mình sống hơn đống vàng
    Không nên tiếc của hơn mạng sống.
  12. Minh tâm khắc cốt.
    Ghi nhớ không dám quên.
  13. Mồ coi cha níu chơn chú, mồ côi mẹ tríu vú dì.
    Chú như cha, dì như mẹ.
  14. Mở miệng mắc quai
    Nói ra thì ngại vì thương danh hại nghĩa.
  15. Mới chuộng cũ vong.
    Đen bạc.
  16. Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa.
    Ấy là một phép xem thiên văn, ở đất nầy.
  17. Một câu nhịn, bằng chín câu lành.
    Một sự nhịn nhục, làm thinh, thì cũng bằng nhiều lời lành.
  18. Một chân bước đi, mười chân bước lại.
    Bịn rịn khó nổi đi.
  19. Một đêm nằm, một năm ngụ.
    Ơn vắn cũng bằng ngãi dài.