Trang:Phat giao dai quan.pdf/61

Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 59 —

hai là giáo-lý đạo Phật, nghĩa là những triết-lý luân-lý, chế-độ của đạo Phật hồi đầu, theo như các kinh-sách cũ thế nào, — phần nhiều là theo những kinh sách của Nam-tôn, vì các nhà bác-học đã xét đích rằng các sách Nam-tôn bằng chữ nam-phạn (pali) cũ hơn và đủ hơn sách Bắc-tôn nhiều; — ba là đạo Phật duyên-cách, nghĩa là từ khi truyền-bá ra ngoài, giáo-lý thay đổi đi thế nào, thứ nhất là thuộc về Bắc-tôn gọi là phái Đại-thừa (đối với Tiểu-thừa là Nam-tôn) truyền sang Tây-tạng, Trung-quốc, Cao-ly, Nhật-bản, Việt-Nam, vì những duyên-cớ gì mà dần-dần biến-hóa đi, hầu thành như một tôn-giáo mới, không còn gì là cái đặc-sắc của đạo gốc vậy.

Nguyên-nhân đạo Phật. — Miền tây-bắc sông Hằng-hà (Gange), tự đời thượng-cổ đã có một giống người khôn-ngoan tài-giỏi, sinh-cơ lập-nghiệp ở đấy đã lâu. Giống này là miêu-duệ giống A-lợi-á (Aryens) tự trên các cao-nguyên trung-bộ Á-châu tràn xuống đã mấy thế-kỷ trước, một phần ở đất Ba-tư (Iran = Perse), một phần ở đất Ấn-độ. Mấy dân ấy hoặc theo nghề canh-nông, hoặc theo nghề mục-súc, tuy về đường vật-chất chưa có chút văn-minh gì, vẫn hãy còn mộc-mạc lắm, mà về đường tinh-thần đã có lòng mơ-màng tưởng-vọng những sự cao-xa. Phần dân tràn xuống đất Ấn-độ, ở miền sông Hằng-hà, sớm đã dựng thành xã-hội, có thể-chế nghiêm. Nhân-dân chia ra làm bốn bậc, gọi là giai-cấp (chữ tây dịch là Castes): 1º Bà-la-môn (婆 羅 門 = Brahmanes); 2º Xái-đế-lợi (刹 帝 利 = Kshatrya); 3º Tỉ-xá (毗 舍 = Vaisya); 4º Thủ-đà (首 陀 = Sudra). Trong